Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

14. Chương Thứ Mười Bốn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13249)
14. Chương Thứ Mười Bốn
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười bốn

Thuyết phàm phuthể nhập báo độan tâm khởi hạnh đầy đủ

Tiết thứ nhất

Thuyết của ngài Thiện Đạo

Ngài Thiện Đạo, đời Đường nhấn mạnh sức bản nguyện của Phật Di-đà, ngài đề xướng thuyết phàm phuthể nhập báo độ. Quán kinh nói pháp môn tha lực cứu vớt phàm phu bị tội ác sanh tử. Trên lịch sử của tông Tịnh độ, ngài khai thác cục diện hoàn toàn mới cho mọi người hiểu. Đặc biệt là ngài Pháp NhiênNhật Bản chuyên theo thuyết của ngài mà đề xướng tông Tịnh độ. Ở Nhật Bản tôn sùng ngài Thiện Đạohoá thân của Di-đà, các tác phẩm của ngài trứ tác về Tịnh độ Di-đà được mọi người trọng vọng, đến nay vẫn còn thịnh hành.

 

Tiết thứ hai

Thuyết phàm phu nhập báo độ

Bởi vì trước ngài Thiện Đạo, hoặc các nhà cùng thời đại với ngài phân loại Tịnh độ, chuyên lấy chỗ cư trú của chúng sanh làm tiêu chuẩn để phân biệt sự hơn kém của quốc độ như đã trình bày ở văn trên. Tức là các nhà nghiên cứu này đều lấy Thọ dụng báo độ làm chỗ cư trú của bồ-tát Địa thượng. Trong đó, lấy Tịnh độ Di-đà làm báo độ, tức là phủ nhận sự vãng sanh của phàm phu Địa tiền, cho rằng phàm phu Địa tiền được vãng sanh Tịnh độBiến hoá độ, hoặc Phàm thánh đồng cư độ, họ đều cho rằng phàm phu vãng sanh báo độ là không thể được.

Nhưng đối với điều này, chỉ có một mình ngài Thiện Đạo đề xướng thuyết phàm phuthể nhập báo độ, tức là lấy báo thân, báo độ làm Tịnh độ Di-đà; đồng thời, ngài chủ trương phàm phu gây tội ác bị sanh tử cũng được vãng sanh báo độ. Quán kinh sớ quyển 1 do ngài trứ tác, dựa theo thuyết của kinh Đại thừa đồng tính chứng minh Tịnh độ Di-đà là Báo thânbáo độ. Trong đó báo độ kì diệu, thật không phải là chỗ của bọn phàm phu cấu uế đầy nghiệp chướng có thể thích hướng về, nhưng do nhờ nhân duyên nguyện lực mạnh mẽ của Đức Phật nhiếp thọ cả năm thừa đều được vãng sanh về báo độ. Do đó, nguyện lực của Đức Phậttăng thượng duyên, cho nên phàm phu cũng có thể nhập báo độ.

Xưa nay, lập trường chung của các nhà chỉ thấy tự lực của chúng sanh, nên cho rằng phàm phu nhập báo độ là không thể được; như thế, bản nguyện của Phật A-di-đà kiến lập trở thành không có ý nghĩa. Phật Di-đà tha thiết kêu gọi mười phương chúng sanh và Ngài lập thệ nguyện nếu có chúng sanh nào không vãng sanh thì Ngài không thành Chính giác, nhưng nay Phật Di-đà đã thành Chính giác, tuy chúng ta vẫn còn là phàm phu, nhưng nếu quy thuận theo Ngài, cầu nguyện vãng sanh thì tất nhiên được ngài tiếp nhận. Nếu không được như thế thì Phật A-di-đà đâu cần kiến lập bản nguyện? Lại đâu cần vì đại đa số phàm phu không thể vãng sanhtrang nghiêm báo độ vi diệu? Những điều này chẳng phải là hoàn toàn thành ra không có chút ý nghĩa. Hoặc có phàm phu dùng sức của chính mình được vãng sanh về Tịnh độ ở cấp độ thấp thì bảo chứng lời Ngài nói: “Nếu chúng sanh nào không được vãng sanh” cũng là không có điều tất yếu này. Bất luận quán sát từ góc độ nào, ý nghĩa Phật Di-đà kiến lập bản nguyện là nói thành lập sự thăng tiến đặc biệt của hàng phàm phu chúng ta. Nếu y cứ vào sự luận bàn của các nhà thì chưa thấy được pháp môn Tịnh độ lấy tha lực cứu giúp làm nghĩa này, cho nên thuyết của các nhà đã nói đều có một ít kiến giải sai lầm.

Bởi vì từ một phái Nhiếp luận, cho đến các ngài Huệ Viễn, Trí Khải đều lấy chỗ dân cư trú làm tiêu chuẩn, phân biệt cõi nước hơn kém là kết quả của sự phát triển từ sự truyền thừa phát triển đối với quan điểm về thân và độ ở Ấn Độ nên đạo lí được nói ra đương nhiên không thể không thừa nhận. Nhưng nếu y theo giáo lí tịnh cõi nước Phật mà nói thì Tịnh độ là cõi do nhân nơi nguyện mà ứng báo, cho dù có khác với Nhiếp luận cho là Thọ dụng độ và nội dung của Thọ dụng độ, tất nhiên cũng có thể gọi là báo độ. Vả lại, phàm phu được vãng sanh báo độ, ở trong các kinh như kinh Đại A-di-đà v.v…đều ghi rõ. Do đó, nay thuyết phàm phu nhập báo độ của ngài Thiện Đạo phải nói là phát huy thật nghĩa của thời đại nguyên thỉ Đại thừa kiến lập Tịnh độ, đúng là kiến giải rất thoả đáng.

 

 

Tiết thứ ba

Luận về khởi hạnh

Ngài Thiện Đạo chủ trương phàm phuthể nhập báo độ, nhưng nhân của hạnh Tịnh độ chủ yếu y cứ vào năm niệm môn của luận Vãng sanh, lại còn chú trọng ba tâm của Quán kinh. Ba tâm này gọi là an tâm, là chính nhân của vãng sanh. Lại lấy an tâm này dạy mọi người qui tắc khởi hạnh tu chân thật, giữ gìn bốn phương pháp tu hành. Ngài Thiện Đạo trứ tác Vãng sanh lễ tán trình bày vãng sanh Tịnh độ phải đầy đủ ba pháp là an tâm, khởi hạnh và tác nghiệp. Trước tiên dẫn chứng trong Quán kinh cần phải đầy đủ ba tâm là chí thành, thâm tâmhồi hướng phát nguyện, gọi là an tâm.

Kế đến, nêu ra năm niệm môn trong luận Vãng sanh lấy ba môn là Thân nghiệp lễ bái, Khẩu nghiệp tán thán, Ý nghiệp ức niệm quán sát, để tu ba nghiệp thân, khẩu, ý. Cuối cùng nêu ra thuyết bốn phương pháp tu hànhCung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu và Trường thời tu; đây là phương pháp sách tấn tu hành ba tâm và năm niệm.

Lại nữa, ngài Thiện Đạo trứ tác Quán kinh sớ quyển 4 ghi: “Tu hành vãng sanh có hai loại sai khác là chính hạnhtạp hạnh, chuyên y theo các kinh luận nói về vãng sanhtu hành gọi là chính hạnh”. Lại nói có năm loại chính hạnh: một, nhất tâm chuyên môn đọc tụng Quán kinh, kinh Di-đà, kinh Vô Lượng Thọ v.vchính hạnh đọc tụng; hai, nhất tâm chuyên chú quán sát, nghĩ nhớ hai báo y, chính trang nghiêm của cõi nước Cực Lạcchính hạnh quán sát; ba, nhất tâm chuyên môn lễ bái Phật A-di-đà là chính hạnh lễ bái; bốn, nhất tâm chuyên môn xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà gọi là chính hạnh xưng danh; năm, nhất tâm chuyên môn tán thán, cúng dường Phật A-di-đà là chính hạnh tán thán cúng dường. Ngoài năm loại chính hạnh này, còn có các thiện gọi là tạp hạnh. Chuyên tu pháp mônliên quan đến Phật A-di-đà là chính hạnh. Xưng niệm Phật, bồ-tát khác gọi là tạp hạnh.

Trong đó, ba loại Lễ bái, Tán thánQuán sát, Vãng sanh lễ tán gọi đó là hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý, tức là tương đương với ba môn Lễ bái v.v… trong năm niệm môn. Do đó, ngoài năm loại chính hạnh và ba môn (Lễ bái, Tán thán, Quán sát) còn tăng thêm hai môn Đọc tụngXưng danh. Đọc tụng nghĩa là tu đạo thì trước tiên phải thụ trì kinh điển Tịnh độ, cho nên phải đọc tụng. Xưng danhthực hành theo bản nguyện của Phật A-di-đà đã phát nguyệnchính định nghiệp.

Như trên đã thuật, ngài Thiện Đạo giải thích nguyện thứ mười tám trong kinh Vô Lượng Thọ: “Cho đến mười niệm” là nghĩa xưng danh mười tiếng. Vãng sanh lễ tán ngài giải thích nguyện văn này như sau: “Xưng danh hiệu của Ta, thậm chí mười tiếng”. Nay Quán kinh sớ, nói: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di-đà, cho đến thuận theo nguyện của Ngài”. Lại phần lưu thông trong Quán kinh sớ nói: “Từ trên đến đây tuy nói về sự lợi ích của hai môn định và tán, nhưng nếu theo ý nghĩa bản nguyện của Đức Phật thì lấy chúng sanh nhất hướng chuyên niệm Phật A-di-đà”. Cho nên lấy xưng danh làm hạnh sanh nhân bản nguyện, đem nó thêm vào một trong năm loại chính hạnh.

Chẳng những như thế, ngài Thiện Đạo lại phân biệt trong năm loại này có trợ nghiệpchính nghiệp. Lấy bốn loại là Lễ bái, Quán sát v.v… làm trợ nghiệp, một hạnh xưng danh gọi là chính định nghiệp. Bốn loại Lễ bái, Quán sát v.v…không thuộc bản nguyện của thệ hạnh, cho nên trở thành trợ nghiệp. Xưng danhbản nguyện trong thệ hạnh, cho nên trở thành chính nghiệp quyết định vãng sanh. Như thế, ngài Thiện Đạo lấy ba phúc, mười sáu pháp quán của Quán kinh và hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý trong Vãng sanh luận gọi chung là trợ nghiệp vãng sanh, lấy xưng danh có bảo chứng “nếu chúng sanh không vãng sanh” là bản nguyện chính định nghiệp, cho rằng thật sự là có giá trị mang tính tuyệt đối.

 

Tiết thứ tư 

Luận về ba tâm

Ngài Thiện Đạo cho rằng vãng sanh phải đủ ba tâm, đây là chính nhân của vãng sanh, nếu thiếu một tâm thì không thể được vãng sanh. Ba tâm là Chí thành tâm, Thâm tâmHồi hướng phát nguyện tâm. Nay thuật lại cách giải thích của ngài Thiện Đạo:

1. Chí thành tâm: Nghĩa là tâm chân thật, tức là khi tu hành ba nghiệp thân, khẩu, ý thì trong tâm phải chân thật, nếu như tâm tu giả dối thì cho dù trong mười hai thời ngày đêm ba nghiệp tu gấp rút mãnh liệt cũng đều gọi là tạp độc thiện, là tu hành giả dối; nếu đem tâm tu giả dối này mà hồi hướng, mong cầu sanh về Tịnh độ Phật A-di-đà thì chắc chắn không thể nào vãng sanh được. Vì lí do đó, nên lấy tu hành trong nhân của Phật A-di-đà, cho đến một niệm, một sát na đều tu từ trong tâm chân thật.

2. Thâm tâm: Tâm tin sâu, có hai loại là tin cơ và tin pháp:

Tin cơ: Tự mình tin sâu sắc chúng ta là hàng phàm phu nhiều đời thường lưu chuyển sanh tử, không có nhân duyên rốt ráo ra khỏi biển khổ, tức là tỉnh ngộ mình là phàm phu tội ác.

Tin pháp: Trong đó có hai loại là tựu nhân lập tín và tựu hạnh lập tín:

- Tựu nhân lập tín: Đức Phật Di-đà, Đức Phật Thích-ca và các Đức Phật trong mười phương đều là người, là lấy con người để lập tín tâm. Chính Phật Di-đà nói, Ngài thành tựu bốn mươi tám nguyện, nhiếp thọ chúng ta nên gọi là Bổn sư, tin sâu dựa vào nguyện lực của Ngài thì chắc chắn được vãng sanh. Chính Đức Phật Thích-ca nói, tin sâu Ngài nói trong Quán kinh chỉ rõ Tịnh độ Di-đà, tin sâu Ngài là giáo chủ của chúng ta. Chính các Đức Phật trong mười phương nói để chứng minh việc phàm phu vãng sanh là không sai, tin các Đức Phật là người làm chứng. Lại ở trong đó, tin bản nguyện của Phật Di-đà cũng như tin kinh Vô Lượng Thọ. Tin Đức Phật Thích-ca nói cũng có nghĩa là tin Quán kinh. Tin các Đức Phật làm chứng cũng là tin kinh A-di-đà.

- Tựu hạnh lập tín: Từ hạnh cầu vãng sanh mà lập tín, tức là tu hạnh vãng sanhsai biệt chính hạnhtạp hạnh. Chính hạnh có năm loại là Đọc tụng, Quán sát v.v…Trong đó, tin xưng danhbản nguyện của Phật Di-đà đã lập thệchính định nghiệp, chủ yếu là chúng ta phải tự biết mìnhphàm phu tội ác sanh tử, tin sâu ý nghĩa ba Phật, ba kinh đã nói, đặc biệt là Phật A-di-đà vì hàng phàm phu chúng takiến lập bản nguyện, tin sâu Ngài nhiếp thọ chúng sanh nên Ngài trở thành đạo sư của chúng ta. Đồng thời, trong chính hạnh vãng sanh cũng có năm loại sai biệt. Trong đó, xưng danh hiệu là chính định nghiệp của sanh nhân bản nguyện; đây gọi là Thâm tâm.

Thuyết này có lẽ từ thuyết ba tín của ngài Đàm Loan mà ra, tức là hiện nay trong văn đã nói “nhất nhất tin sâu” tương đương với “Thuần tín” trong ba tín của ngài Đàm Loan. Nói “quyết định” tương đương với “Thuần nhất quyết định tín” của ngài Thiện Đạo, lại cho rằng “niệm niệm không xả bỏ” tương đương với thuyết “tương tục” của ngài Thiện Đạo.

3. Hồi hướng phát nguyện tâm: Tức là hồi hướng thiện căn đã làm, nghĩa là phát nguyện vãng sanh Tịnh độ. Quán kinh sớ, ghi: “Lấy thiện căn của ta và người đã tu ở trong sự chân thật tin sâu mà hồi hướng nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc, gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm”. Trong đó, hồi hướng là sanh về cõi nước Cực Lạc rồi, khởi tâm đại bi, trở lại sanh tử giáo hoá chúng sanh thì gọi là hồi hướng. Trong đây, đoạn trước nói hồi hướng thiện căn nguyện sanh về Tịnh độ tương đương với Vãng tướng hồi hướng của ngài Đàm Loan. Đoạn sau nói nguyện trở lại sanh tử giáo hoá chúng sanh tương đương với Hoàn tướng hồi hướng của ngài Đàm Loan. Do đó có thể biết, ngài Thiện Đạo giải thích Hồi hướng tâm chủ yếu dựa vào thuyết hồi hướng của ngài Đàm Loan.

Lại nữa, ngài Thiện Đạo lấy Hồi hướng phát nguyện tâmTác nguyện trong năm niệm môn, xem hai môn hồi hướngý nghĩa giống nhau, tức là giải thích tác nguyện thành phát nguyện. Vãng sanh lễ tán giải thích năm niệm môn: “Tác nguyện môn là chuyên tâm vào bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào; công đức do ba nghiệp, bốn oai nghi đã tạo đều phải phát nguyện trong tâm chân thật, nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc, cho nên gọi là Tác nguyện môn”. Vì thế, ngài Thiện Đạo lấy ba môn Lễ bái, Tán thánQuán sát trong năm niệm môn làm khởi hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý; lấy hai môn Tác nguyệnHồi hướng bao gồm trong an tâm.

Bởi vì, ngài Thiện Đạo nhấn mạnh đầy đủ ba tâm khôngnghi ngờ, là y theo văn của Quán kinh đầy đủ ba tâm thì chắc chắn vãng sanh về cõi nước Cực Lạc, nhưng đặc biệt nhấn mạnh tính quan trọng của nó. Hồi hướng phát nguyện tâmđồng nghĩa với hai môn Tác nguyệnHồi hướng trong năm niệm môn. Lại nữa, hồi hướng tâm của ngài là nghĩa Vãng tướng hồi hướngHoàn tướng hồi hướng, tức là ý nghĩa của bồ-đề tâm. Vả lại, Thâm tâm là tương đương với ba tín là Thuần hậu v.v…của ngài Đàm Loan, cho rằng ba tâm này là sanh nhân không thể thiếu, dù vãng sanh vào bất kì Tịnh độ nào, nếu thiếu một tâm thì không được vãng sanh, dựa vào nghĩa này mà đề xướng ba tâm phải đầy đủ. Chắc là từ luận thuyết của ngài Đàm Loan mà ngầm chỉ ra điều chính yếu, mới có sự giải thích ba tâm như trên.

 

Tiết thứ năm

Bốn pháp tu

Ngài Thiện Đạo lấy an tâm, khởi hạnh đã thuật ở văn trên làm quy tắc thật tu và cần giữ bốn pháp tu; đây gọi là tác nghiệp. Bốn pháp tu là Cung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu và Trường thời tu. Bốn pháp tu này trích từ quyển thứ 8 Lương dịch Nhiếp Đại thừa luận thích, nay ngài Thiện Đạo chuyển dùng nghĩa này, làm thành quy củ sách tấn tu hành cho người nguyện sanh về Tịnh độ.

Cung kính tu: Có liên quan đến qui tắc thân nghiệp lễ bái, tức là khi chúng ta lễ bái Phật A-di-đà để bày tỏ thái độ ân cần cung kính.

Vô dư tu: Nói về qui tắc có liên quan đến chuyên tu ba nghiệp, tức là khi khởi hạnh bằng ba nghiệp thân, khẩu, ý thì không có xen tạp nghiệp khác, chỉ chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, cũng dạy lấy chuyên niệm, chuyên tưởng, chuyên lễ, chuyên tán thán Phật A-di-đà và thánh chúngTịnh độ, chỉ chuyên thực hành việc này gọi là chuyên tu. Tu xen tạp nghiệp khác gọi là tạp tu. Vãng sanh lễ tán nêu ra tạp tu có mười ba loại sai lầm, trong một trăm người chỉ mong được một, hai người vãng sanh; trong một nghìn người mong được năm, ba người vãng sanh. Chuyên tu là không bị các tạp duyên làm loạn động, lại tương ưng với bản nguyện của Đức Phật, cho đến vâng theo lời Phật dạy thì được lợi ích, tức là nói mười người niệm Phật thì mười người được vãng sanh, trăm người niệm Phật thì trăm người được vãng sanh.

Vô gián tu: Nêu ra qui tắc tâm hành thường tu liên tục, tức là an tâm, khởi hạnh đều không có gián đoạn luôn luôn liên tục. Tu xen tạp nghiệp khác thì chính hạnh gián đoạn. Vô gián tu này thì không xen tạp nghiệp khác, không khởi phiền não tham, sân làm gián đoạn chính hạnh. Nhưng chúng taphàm phu thường lưu chuyển sanh tử, vì không chuẩn bị trước nên khi gặp duyên đối cảnh sanh khởi phiền não; vì thế, nếu lúc phiền não sanh khởi mà tạo tội thì phải theo tội lỗi đã phạm mà sám hối, không để cách niệm, cách giờ, cách ngày, thường làm cho thân tâm thanh tịnh.

Trường thời tu: Biểu thị qui tắc một đời không thoái lui, tức là từ khi mới phát tâm, cho đến lúc lâm chung, tín hạnh tương tục, thề không dừng lại ở giữa chừng.

Tóm lại, vấn đề ngài Thiện Đạo đã nói, tuy là phàm phu thường lưu chuyển trong sanh tử nhưng nếu phát khởi ba tâm, chuyên tu năm loại chính hạnh, không xen tạp nghiệp khác, tu liên tụckhông giải đãi thì đến lúc mạng chung nương theo bản nguyện Di-đà, mới được vãng sanh về báo độ, là nơi báo thân của Phật Di-đà cư trú.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14639)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11692)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12638)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10178)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11948)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15156)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10948)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10392)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12340)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16277)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14128)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11636)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14643)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11903)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16687)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12623)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11231)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11929)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51762)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15324)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13859)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11353)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13075)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12663)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13101)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12352)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54040)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14268)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9846)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57605)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14353)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19979)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15289)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17362)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13217)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11824)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13378)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14552)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12363)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12039)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11958)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13174)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12412)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13529)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13230)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25374)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12097)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11742)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41942)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28167)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38575)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14612)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12587)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16106)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant