Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Chương Thứ Mười Bốn

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 13417)
14. Chương Thứ Mười Bốn
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười bốn

Thuyết phàm phuthể nhập báo độan tâm khởi hạnh đầy đủ

Tiết thứ nhất

Thuyết của ngài Thiện Đạo

Ngài Thiện Đạo, đời Đường nhấn mạnh sức bản nguyện của Phật Di-đà, ngài đề xướng thuyết phàm phuthể nhập báo độ. Quán kinh nói pháp môn tha lực cứu vớt phàm phu bị tội ác sanh tử. Trên lịch sử của tông Tịnh độ, ngài khai thác cục diện hoàn toàn mới cho mọi người hiểu. Đặc biệt là ngài Pháp NhiênNhật Bản chuyên theo thuyết của ngài mà đề xướng tông Tịnh độ. Ở Nhật Bản tôn sùng ngài Thiện Đạohoá thân của Di-đà, các tác phẩm của ngài trứ tác về Tịnh độ Di-đà được mọi người trọng vọng, đến nay vẫn còn thịnh hành.

 

Tiết thứ hai

Thuyết phàm phu nhập báo độ

Bởi vì trước ngài Thiện Đạo, hoặc các nhà cùng thời đại với ngài phân loại Tịnh độ, chuyên lấy chỗ cư trú của chúng sanh làm tiêu chuẩn để phân biệt sự hơn kém của quốc độ như đã trình bày ở văn trên. Tức là các nhà nghiên cứu này đều lấy Thọ dụng báo độ làm chỗ cư trú của bồ-tát Địa thượng. Trong đó, lấy Tịnh độ Di-đà làm báo độ, tức là phủ nhận sự vãng sanh của phàm phu Địa tiền, cho rằng phàm phu Địa tiền được vãng sanh Tịnh độBiến hoá độ, hoặc Phàm thánh đồng cư độ, họ đều cho rằng phàm phu vãng sanh báo độ là không thể được.

Nhưng đối với điều này, chỉ có một mình ngài Thiện Đạo đề xướng thuyết phàm phuthể nhập báo độ, tức là lấy báo thân, báo độ làm Tịnh độ Di-đà; đồng thời, ngài chủ trương phàm phu gây tội ác bị sanh tử cũng được vãng sanh báo độ. Quán kinh sớ quyển 1 do ngài trứ tác, dựa theo thuyết của kinh Đại thừa đồng tính chứng minh Tịnh độ Di-đà là Báo thânbáo độ. Trong đó báo độ kì diệu, thật không phải là chỗ của bọn phàm phu cấu uế đầy nghiệp chướng có thể thích hướng về, nhưng do nhờ nhân duyên nguyện lực mạnh mẽ của Đức Phật nhiếp thọ cả năm thừa đều được vãng sanh về báo độ. Do đó, nguyện lực của Đức Phậttăng thượng duyên, cho nên phàm phu cũng có thể nhập báo độ.

Xưa nay, lập trường chung của các nhà chỉ thấy tự lực của chúng sanh, nên cho rằng phàm phu nhập báo độ là không thể được; như thế, bản nguyện của Phật A-di-đà kiến lập trở thành không có ý nghĩa. Phật Di-đà tha thiết kêu gọi mười phương chúng sanh và Ngài lập thệ nguyện nếu có chúng sanh nào không vãng sanh thì Ngài không thành Chính giác, nhưng nay Phật Di-đà đã thành Chính giác, tuy chúng ta vẫn còn là phàm phu, nhưng nếu quy thuận theo Ngài, cầu nguyện vãng sanh thì tất nhiên được ngài tiếp nhận. Nếu không được như thế thì Phật A-di-đà đâu cần kiến lập bản nguyện? Lại đâu cần vì đại đa số phàm phu không thể vãng sanhtrang nghiêm báo độ vi diệu? Những điều này chẳng phải là hoàn toàn thành ra không có chút ý nghĩa. Hoặc có phàm phu dùng sức của chính mình được vãng sanh về Tịnh độ ở cấp độ thấp thì bảo chứng lời Ngài nói: “Nếu chúng sanh nào không được vãng sanh” cũng là không có điều tất yếu này. Bất luận quán sát từ góc độ nào, ý nghĩa Phật Di-đà kiến lập bản nguyện là nói thành lập sự thăng tiến đặc biệt của hàng phàm phu chúng ta. Nếu y cứ vào sự luận bàn của các nhà thì chưa thấy được pháp môn Tịnh độ lấy tha lực cứu giúp làm nghĩa này, cho nên thuyết của các nhà đã nói đều có một ít kiến giải sai lầm.

Bởi vì từ một phái Nhiếp luận, cho đến các ngài Huệ Viễn, Trí Khải đều lấy chỗ dân cư trú làm tiêu chuẩn, phân biệt cõi nước hơn kém là kết quả của sự phát triển từ sự truyền thừa phát triển đối với quan điểm về thân và độ ở Ấn Độ nên đạo lí được nói ra đương nhiên không thể không thừa nhận. Nhưng nếu y theo giáo lí tịnh cõi nước Phật mà nói thì Tịnh độ là cõi do nhân nơi nguyện mà ứng báo, cho dù có khác với Nhiếp luận cho là Thọ dụng độ và nội dung của Thọ dụng độ, tất nhiên cũng có thể gọi là báo độ. Vả lại, phàm phu được vãng sanh báo độ, ở trong các kinh như kinh Đại A-di-đà v.v…đều ghi rõ. Do đó, nay thuyết phàm phu nhập báo độ của ngài Thiện Đạo phải nói là phát huy thật nghĩa của thời đại nguyên thỉ Đại thừa kiến lập Tịnh độ, đúng là kiến giải rất thoả đáng.

 

 

Tiết thứ ba

Luận về khởi hạnh

Ngài Thiện Đạo chủ trương phàm phuthể nhập báo độ, nhưng nhân của hạnh Tịnh độ chủ yếu y cứ vào năm niệm môn của luận Vãng sanh, lại còn chú trọng ba tâm của Quán kinh. Ba tâm này gọi là an tâm, là chính nhân của vãng sanh. Lại lấy an tâm này dạy mọi người qui tắc khởi hạnh tu chân thật, giữ gìn bốn phương pháp tu hành. Ngài Thiện Đạo trứ tác Vãng sanh lễ tán trình bày vãng sanh Tịnh độ phải đầy đủ ba pháp là an tâm, khởi hạnh và tác nghiệp. Trước tiên dẫn chứng trong Quán kinh cần phải đầy đủ ba tâm là chí thành, thâm tâmhồi hướng phát nguyện, gọi là an tâm.

Kế đến, nêu ra năm niệm môn trong luận Vãng sanh lấy ba môn là Thân nghiệp lễ bái, Khẩu nghiệp tán thán, Ý nghiệp ức niệm quán sát, để tu ba nghiệp thân, khẩu, ý. Cuối cùng nêu ra thuyết bốn phương pháp tu hànhCung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu và Trường thời tu; đây là phương pháp sách tấn tu hành ba tâm và năm niệm.

Lại nữa, ngài Thiện Đạo trứ tác Quán kinh sớ quyển 4 ghi: “Tu hành vãng sanh có hai loại sai khác là chính hạnhtạp hạnh, chuyên y theo các kinh luận nói về vãng sanhtu hành gọi là chính hạnh”. Lại nói có năm loại chính hạnh: một, nhất tâm chuyên môn đọc tụng Quán kinh, kinh Di-đà, kinh Vô Lượng Thọ v.vchính hạnh đọc tụng; hai, nhất tâm chuyên chú quán sát, nghĩ nhớ hai báo y, chính trang nghiêm của cõi nước Cực Lạcchính hạnh quán sát; ba, nhất tâm chuyên môn lễ bái Phật A-di-đà là chính hạnh lễ bái; bốn, nhất tâm chuyên môn xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà gọi là chính hạnh xưng danh; năm, nhất tâm chuyên môn tán thán, cúng dường Phật A-di-đà là chính hạnh tán thán cúng dường. Ngoài năm loại chính hạnh này, còn có các thiện gọi là tạp hạnh. Chuyên tu pháp mônliên quan đến Phật A-di-đà là chính hạnh. Xưng niệm Phật, bồ-tát khác gọi là tạp hạnh.

Trong đó, ba loại Lễ bái, Tán thánQuán sát, Vãng sanh lễ tán gọi đó là hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý, tức là tương đương với ba môn Lễ bái v.v… trong năm niệm môn. Do đó, ngoài năm loại chính hạnh và ba môn (Lễ bái, Tán thán, Quán sát) còn tăng thêm hai môn Đọc tụngXưng danh. Đọc tụng nghĩa là tu đạo thì trước tiên phải thụ trì kinh điển Tịnh độ, cho nên phải đọc tụng. Xưng danhthực hành theo bản nguyện của Phật A-di-đà đã phát nguyệnchính định nghiệp.

Như trên đã thuật, ngài Thiện Đạo giải thích nguyện thứ mười tám trong kinh Vô Lượng Thọ: “Cho đến mười niệm” là nghĩa xưng danh mười tiếng. Vãng sanh lễ tán ngài giải thích nguyện văn này như sau: “Xưng danh hiệu của Ta, thậm chí mười tiếng”. Nay Quán kinh sớ, nói: “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di-đà, cho đến thuận theo nguyện của Ngài”. Lại phần lưu thông trong Quán kinh sớ nói: “Từ trên đến đây tuy nói về sự lợi ích của hai môn định và tán, nhưng nếu theo ý nghĩa bản nguyện của Đức Phật thì lấy chúng sanh nhất hướng chuyên niệm Phật A-di-đà”. Cho nên lấy xưng danh làm hạnh sanh nhân bản nguyện, đem nó thêm vào một trong năm loại chính hạnh.

Chẳng những như thế, ngài Thiện Đạo lại phân biệt trong năm loại này có trợ nghiệpchính nghiệp. Lấy bốn loại là Lễ bái, Quán sát v.v… làm trợ nghiệp, một hạnh xưng danh gọi là chính định nghiệp. Bốn loại Lễ bái, Quán sát v.v…không thuộc bản nguyện của thệ hạnh, cho nên trở thành trợ nghiệp. Xưng danhbản nguyện trong thệ hạnh, cho nên trở thành chính nghiệp quyết định vãng sanh. Như thế, ngài Thiện Đạo lấy ba phúc, mười sáu pháp quán của Quán kinh và hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý trong Vãng sanh luận gọi chung là trợ nghiệp vãng sanh, lấy xưng danh có bảo chứng “nếu chúng sanh không vãng sanh” là bản nguyện chính định nghiệp, cho rằng thật sự là có giá trị mang tính tuyệt đối.

 

Tiết thứ tư 

Luận về ba tâm

Ngài Thiện Đạo cho rằng vãng sanh phải đủ ba tâm, đây là chính nhân của vãng sanh, nếu thiếu một tâm thì không thể được vãng sanh. Ba tâm là Chí thành tâm, Thâm tâmHồi hướng phát nguyện tâm. Nay thuật lại cách giải thích của ngài Thiện Đạo:

1. Chí thành tâm: Nghĩa là tâm chân thật, tức là khi tu hành ba nghiệp thân, khẩu, ý thì trong tâm phải chân thật, nếu như tâm tu giả dối thì cho dù trong mười hai thời ngày đêm ba nghiệp tu gấp rút mãnh liệt cũng đều gọi là tạp độc thiện, là tu hành giả dối; nếu đem tâm tu giả dối này mà hồi hướng, mong cầu sanh về Tịnh độ Phật A-di-đà thì chắc chắn không thể nào vãng sanh được. Vì lí do đó, nên lấy tu hành trong nhân của Phật A-di-đà, cho đến một niệm, một sát na đều tu từ trong tâm chân thật.

2. Thâm tâm: Tâm tin sâu, có hai loại là tin cơ và tin pháp:

Tin cơ: Tự mình tin sâu sắc chúng ta là hàng phàm phu nhiều đời thường lưu chuyển sanh tử, không có nhân duyên rốt ráo ra khỏi biển khổ, tức là tỉnh ngộ mình là phàm phu tội ác.

Tin pháp: Trong đó có hai loại là tựu nhân lập tín và tựu hạnh lập tín:

- Tựu nhân lập tín: Đức Phật Di-đà, Đức Phật Thích-ca và các Đức Phật trong mười phương đều là người, là lấy con người để lập tín tâm. Chính Phật Di-đà nói, Ngài thành tựu bốn mươi tám nguyện, nhiếp thọ chúng ta nên gọi là Bổn sư, tin sâu dựa vào nguyện lực của Ngài thì chắc chắn được vãng sanh. Chính Đức Phật Thích-ca nói, tin sâu Ngài nói trong Quán kinh chỉ rõ Tịnh độ Di-đà, tin sâu Ngài là giáo chủ của chúng ta. Chính các Đức Phật trong mười phương nói để chứng minh việc phàm phu vãng sanh là không sai, tin các Đức Phật là người làm chứng. Lại ở trong đó, tin bản nguyện của Phật Di-đà cũng như tin kinh Vô Lượng Thọ. Tin Đức Phật Thích-ca nói cũng có nghĩa là tin Quán kinh. Tin các Đức Phật làm chứng cũng là tin kinh A-di-đà.

- Tựu hạnh lập tín: Từ hạnh cầu vãng sanh mà lập tín, tức là tu hạnh vãng sanhsai biệt chính hạnhtạp hạnh. Chính hạnh có năm loại là Đọc tụng, Quán sát v.v…Trong đó, tin xưng danhbản nguyện của Phật Di-đà đã lập thệchính định nghiệp, chủ yếu là chúng ta phải tự biết mìnhphàm phu tội ác sanh tử, tin sâu ý nghĩa ba Phật, ba kinh đã nói, đặc biệt là Phật A-di-đà vì hàng phàm phu chúng takiến lập bản nguyện, tin sâu Ngài nhiếp thọ chúng sanh nên Ngài trở thành đạo sư của chúng ta. Đồng thời, trong chính hạnh vãng sanh cũng có năm loại sai biệt. Trong đó, xưng danh hiệu là chính định nghiệp của sanh nhân bản nguyện; đây gọi là Thâm tâm.

Thuyết này có lẽ từ thuyết ba tín của ngài Đàm Loan mà ra, tức là hiện nay trong văn đã nói “nhất nhất tin sâu” tương đương với “Thuần tín” trong ba tín của ngài Đàm Loan. Nói “quyết định” tương đương với “Thuần nhất quyết định tín” của ngài Thiện Đạo, lại cho rằng “niệm niệm không xả bỏ” tương đương với thuyết “tương tục” của ngài Thiện Đạo.

3. Hồi hướng phát nguyện tâm: Tức là hồi hướng thiện căn đã làm, nghĩa là phát nguyện vãng sanh Tịnh độ. Quán kinh sớ, ghi: “Lấy thiện căn của ta và người đã tu ở trong sự chân thật tin sâu mà hồi hướng nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc, gọi là Hồi hướng phát nguyện tâm”. Trong đó, hồi hướng là sanh về cõi nước Cực Lạc rồi, khởi tâm đại bi, trở lại sanh tử giáo hoá chúng sanh thì gọi là hồi hướng. Trong đây, đoạn trước nói hồi hướng thiện căn nguyện sanh về Tịnh độ tương đương với Vãng tướng hồi hướng của ngài Đàm Loan. Đoạn sau nói nguyện trở lại sanh tử giáo hoá chúng sanh tương đương với Hoàn tướng hồi hướng của ngài Đàm Loan. Do đó có thể biết, ngài Thiện Đạo giải thích Hồi hướng tâm chủ yếu dựa vào thuyết hồi hướng của ngài Đàm Loan.

Lại nữa, ngài Thiện Đạo lấy Hồi hướng phát nguyện tâmTác nguyện trong năm niệm môn, xem hai môn hồi hướngý nghĩa giống nhau, tức là giải thích tác nguyện thành phát nguyện. Vãng sanh lễ tán giải thích năm niệm môn: “Tác nguyện môn là chuyên tâm vào bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào; công đức do ba nghiệp, bốn oai nghi đã tạo đều phải phát nguyện trong tâm chân thật, nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc, cho nên gọi là Tác nguyện môn”. Vì thế, ngài Thiện Đạo lấy ba môn Lễ bái, Tán thánQuán sát trong năm niệm môn làm khởi hạnh của ba nghiệp thân, khẩu, ý; lấy hai môn Tác nguyệnHồi hướng bao gồm trong an tâm.

Bởi vì, ngài Thiện Đạo nhấn mạnh đầy đủ ba tâm khôngnghi ngờ, là y theo văn của Quán kinh đầy đủ ba tâm thì chắc chắn vãng sanh về cõi nước Cực Lạc, nhưng đặc biệt nhấn mạnh tính quan trọng của nó. Hồi hướng phát nguyện tâmđồng nghĩa với hai môn Tác nguyệnHồi hướng trong năm niệm môn. Lại nữa, hồi hướng tâm của ngài là nghĩa Vãng tướng hồi hướngHoàn tướng hồi hướng, tức là ý nghĩa của bồ-đề tâm. Vả lại, Thâm tâm là tương đương với ba tín là Thuần hậu v.v…của ngài Đàm Loan, cho rằng ba tâm này là sanh nhân không thể thiếu, dù vãng sanh vào bất kì Tịnh độ nào, nếu thiếu một tâm thì không được vãng sanh, dựa vào nghĩa này mà đề xướng ba tâm phải đầy đủ. Chắc là từ luận thuyết của ngài Đàm Loan mà ngầm chỉ ra điều chính yếu, mới có sự giải thích ba tâm như trên.

 

Tiết thứ năm

Bốn pháp tu

Ngài Thiện Đạo lấy an tâm, khởi hạnh đã thuật ở văn trên làm quy tắc thật tu và cần giữ bốn pháp tu; đây gọi là tác nghiệp. Bốn pháp tu là Cung kính tu, Vô dư tu, Vô gián tu và Trường thời tu. Bốn pháp tu này trích từ quyển thứ 8 Lương dịch Nhiếp Đại thừa luận thích, nay ngài Thiện Đạo chuyển dùng nghĩa này, làm thành quy củ sách tấn tu hành cho người nguyện sanh về Tịnh độ.

Cung kính tu: Có liên quan đến qui tắc thân nghiệp lễ bái, tức là khi chúng ta lễ bái Phật A-di-đà để bày tỏ thái độ ân cần cung kính.

Vô dư tu: Nói về qui tắc có liên quan đến chuyên tu ba nghiệp, tức là khi khởi hạnh bằng ba nghiệp thân, khẩu, ý thì không có xen tạp nghiệp khác, chỉ chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, cũng dạy lấy chuyên niệm, chuyên tưởng, chuyên lễ, chuyên tán thán Phật A-di-đà và thánh chúngTịnh độ, chỉ chuyên thực hành việc này gọi là chuyên tu. Tu xen tạp nghiệp khác gọi là tạp tu. Vãng sanh lễ tán nêu ra tạp tu có mười ba loại sai lầm, trong một trăm người chỉ mong được một, hai người vãng sanh; trong một nghìn người mong được năm, ba người vãng sanh. Chuyên tu là không bị các tạp duyên làm loạn động, lại tương ưng với bản nguyện của Đức Phật, cho đến vâng theo lời Phật dạy thì được lợi ích, tức là nói mười người niệm Phật thì mười người được vãng sanh, trăm người niệm Phật thì trăm người được vãng sanh.

Vô gián tu: Nêu ra qui tắc tâm hành thường tu liên tục, tức là an tâm, khởi hạnh đều không có gián đoạn luôn luôn liên tục. Tu xen tạp nghiệp khác thì chính hạnh gián đoạn. Vô gián tu này thì không xen tạp nghiệp khác, không khởi phiền não tham, sân làm gián đoạn chính hạnh. Nhưng chúng taphàm phu thường lưu chuyển sanh tử, vì không chuẩn bị trước nên khi gặp duyên đối cảnh sanh khởi phiền não; vì thế, nếu lúc phiền não sanh khởi mà tạo tội thì phải theo tội lỗi đã phạm mà sám hối, không để cách niệm, cách giờ, cách ngày, thường làm cho thân tâm thanh tịnh.

Trường thời tu: Biểu thị qui tắc một đời không thoái lui, tức là từ khi mới phát tâm, cho đến lúc lâm chung, tín hạnh tương tục, thề không dừng lại ở giữa chừng.

Tóm lại, vấn đề ngài Thiện Đạo đã nói, tuy là phàm phu thường lưu chuyển trong sanh tử nhưng nếu phát khởi ba tâm, chuyên tu năm loại chính hạnh, không xen tạp nghiệp khác, tu liên tụckhông giải đãi thì đến lúc mạng chung nương theo bản nguyện Di-đà, mới được vãng sanh về báo độ, là nơi báo thân của Phật Di-đà cư trú.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12524)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14113)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10856)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10526)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11199)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12007)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13158)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13653)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33678)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13065)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17902)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11450)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11866)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11514)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18982)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12558)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11349)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15784)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11825)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11703)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12639)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13974)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13002)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12955)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13303)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12780)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12704)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11758)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12331)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12390)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19833)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11969)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16893)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12678)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15066)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16129)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12894)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12248)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11923)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11931)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16514)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12502)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11827)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19866)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11167)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11265)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10407)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11103)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10975)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10041)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant