Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

19. Chương Thứ Mười Chín

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12771)
19. Chương Thứ Mười Chín
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười chín

Thuyết lãnh giải ba tâm và Phật thể tức là hành

Tiết thứ nhất

Chủ trương của phái Tây Sơn

Ngài Hạnh Tây theo tư tưởng bản giác của tông Thiên Thai đề xướng nghĩa mới ‘Phật trí nhất niệm’. Nhưng ngài Pháp Nhiên cùng với đệ tử phái chính thống ra sức bài xích, cho rằng những điều này là không đúng. Mặc dù bị bài xích như thế, nhưng hai ngài Chứng KhôngThân Loan lại đồng tình với ngài Hạnh Tây, lại nghiên cứu sâu vấn đề an tâm lãnh giải. Bởi vì, ngài Hạnh Tây cho rằng hàng phàm phu chúng ta vốn là vô thỉ bản giác Như Lai, khi ngộ giải lí này thì quyết định vãng sanh.

Bốn mươi tám nguyệnphương tiện thùy tích, không phải là chân thật; đây là thuyết dựa vào pháp môn bản giác. Về điều này, ngài Chứng Không lấy Di-đà đã thành Chính giác cách đây mười kiếp gọi là Tích môn Di-đà làm chủ thể. Di-đà thành tựu Chính giác, đồng thời chúng sanh vãng sanh cũng đã thành tựu; đây là theo thuyết bản vị tích môn.

 

Tiết thứ hai

Thuyết ba tâm và tâm lãnh giải

Nay ngài Chứng Không nói giống với ngài Long Khoan cho rằng ba tâm là xả bỏ tự lực mà quy về tha lực; vả lại, ba tâm này đều gọi là lãnh giải hoằng nguyện, là tâm lãnh giải. Ngài Chứng Không trứ tác Quán kinh tán thiện nghĩa tha bút sao quyển thượng, giải thích Chí thành tâm, Chân thật tâm là tâm lãnh giải. Tâm lãnh giải là tâm xả bỏ tự lực, quy về tha lực. Ngài lại giải thích Thâm tâmtín tâm, tức là hai loại tâm tín cơ và tâm tín pháp:

1. Tâm tín cơ: Tin biết tự thân là địa vị quyết định phàm phu thấp kém không có thiện nghiệp, tức là trong Chí thành tâm ở văn trên khuyên răn địa vị quyết định phàm phu chưa hiện khởi tướng hiền thiện, tinh tiến tức là Thâm tâm xả bỏ tự lực.

2. Tâm tín pháp: Là nương theo nguyện lực của Di-đà quyết định tưởng niệm vãng sanh, tức là Chân thật tâm của văn trên nói là quy về tha lực, quyết định tha thiết tín tâm.

Ngài lại giải thích Hồi hướng phát nguyện tâm, trong một tâm lãnh giải chia làm ba tâm. Tâm thứ nhất là hạnh đáng ghét thuộc tạp độc hư giả. Tâm thứ hai là tâm tin vào bản nguyện Di-đà. Một khi chán ghét tự lực, tâm tín ngưỡng tha lực, chỉ cầu vãng sanhhiển thị tâm thứ ba. Ba tâm mà thiếu một tâm thì không được vãng sanh.

Lấy Chí thành tâm xả bỏ tự lực quy về tâm tha lực, lấy Thâm tâm quy về tha lực mà sanh tín tâm tha thiết chân thật, lấy Hồi hướng phát nguyện tâm làm tâm chán ghét tự lực tin sâu tha lực (Phật lực) hiển thị chỉ có pháp môn này mới được vãng sanh, ba tâm đều quy về tâm tha lực.

Ngài Chứng Không lấy ba tâm này để giải thích tâm lãnh giải, sau khi nghe giải thích thì xả bỏ tự lực quy về tha lực mà được ba tâm này. Ngài Long Khoan cũng lấy ba tâm này làm tâm quy về tha lực. Nhưng ngài nói ngoài tha lực tín ngưỡng bản nguyện Phật Di-đà ra thì không còn có bất kỳ sự vật nào, nên không nói có tâm lãnh giải. Ngài Hạnh Tây chủ trương cần phải lấy lãnh giải làm điều kiện chủ yếu. Nhưng thuyết ba tâm và tâm lãnh giải dường như có bất đồng. Nay ngài Chứng Không hợp lấy hai thuyết đề xướng thuyết ba tâm và tâm lãnh giải.

 

Tiết thứ ba

Thuyết Phật thể tức là hành

Làm thế nào lãnh giải việc này, nói chung tất cả phàm phu thiện ác không thể dùng pháp của hành môn tự lựcđược giải thoát, chỉ có tin sâu nương vào hoằng nguyện của Phật Di-đà thì mới được vãng sanh về báo độ.

Bởi vì, ngài Chứng Không phân tích giáo nghĩa của một đời của Phật Thích-ca làm ba môn là Hành môn, Quán môn và Hoằng nguyện môn. Trước Quán kinh thì các kinh đã nói tám vạn pháp môn tu hành, gọi chung là pháp hành tự lực thánh đạo môn. Quán kinh nói: “Xả bỏ hành môn tự lực quy về thệ nguyện của Phật làm ý nghĩa chủ yếu, đó là Quán môn.

Đại bản Di-đà nói ngay bản nguyện Di-đà thì gọi đó là Hoằng nguyện môn. Hoằng nguyện là quy kết một đời Đức Phật giáo hóa, nếu không quay về với Di-đà thì hàng phàm phu chắc chắn không được giải thoát. Chủ yếu của hoằng nguyện là chỉ nguyện thứ mười tám. Ngài Chứng Không lấy trọng điểm đặc biệt “Nếu không được vãng sanh thì Ta thề không thành Chính giác”. Câu nói này, lấy việc vãng sanh của hàng phàm phu chúng ta làm đối tượng mà phát nguyện thành tựu chính giác của Như Lai. Nhưng Như Lai đã thành Chính giác từ mười kiếp trước kia chính là Phật A-di-đà. Chúng sanh vãng sanhNhư Lai thành tựu Chính giác chắc chắnđồng thời. Cho nên đề xướng thuyết vãng sanhChính giác đồng thời nhất thể thành tựu.

Ở đây cho rằng hàng phàm phu chúng ta đủ tư cách vãng sanh về báo độ từ mười kiếp xa xưa. Thuyết này tuy có bất đồng với thuyết vô thỉ bản giác của ngài Hạnh Tây, nhưng đồng sanh ra từ tư tưởng bản giác; đây là điều không còn nghi ngờ.

Quán kinh huyền nghĩa phần của ngài Chứng Không nói: “Nam mô tức là quy y, cho đến Nam mô A-di-đà Phật tức là hành”, đó là kiến lập thuyết Phật thể tức là hành. Phật A-di-đà có tự thể thành Phật Chính giác, đồng thời cũng có hành tức là thể, cho nên thành tựu chúng sanh vãng sanh, là dựa vào luận cứ vãng sanhChính giác đồng thời thành tựu này.

An tâm quyết nghi sao nói rõ ý này: “Đức Phật thay chúng sanh tu nguyện hạnh viên mãn, nên có thể làm cho chúng ta được vãng sanh. Lúc nguyện và hạnh chúng sanh trong mười phương viên mãn vãng sanh thành tựu thì thành tựu Chính giác của Nam mô A-di-đà Phật nhất thể với cơ và pháp”. Ở đây nói chính giác của Phật tức là sự vãng sanh của phàm phu. Khi chúng sanh trong mười phương vãng sanh thành tựu, gọi là Phật đã thành Chính giác. Phật thành Chính giác, chúng ta vãng sanh thành tựu, nói hai điều này là cùng một lúc.

 

Tiết thứ tư

Phát nguyệnquy mạng

Ngài Chứng Không giải thích ba tâm từ hai phương diện Quán môn và Hoằng nguyện môn. Nói từ quan điểm Quán môn, ba tâm tức là tâm chúng sanh đã phát. Nhưng pháp thể của hoằng nguyện, nếu theo thuyết Nam mô trong Nam mô A-di-đà Phật thì cũng thành tựu trên Phật vị. Sáu chữ danh hiệu kia là danh hiệu cơ, pháp nhất thể.

Huyền nghĩa quán môn nghĩa sao quyển 1 của ngài Chứng Không trứ tác nói: “Phát nguyện là ý nghĩa Quán môn tuy rộng, nhưng Phật chỉ dạy phải quy về trong Hoằng nguyện, tức là tương đương với ba tâm. Ba tâm này chưa quy về Hoằng nguyện thì khi an trụ ở Quán môn được gọi chung là phát nguyện. Đã quy về Hoằng nguyện thì chỉ cho quy mạng. Ba tâm tuy là một pháp, nếu chia vị khác biệt Quán môn và Hoằng nguyện môn thì cũng phải lấy phát nguyệnquy mạng làm tên để phân biệt”.

Trong Thuật thành do ngài trứ tác có trình bày ý này: “Quy mạng trong quán Phật (tức Quán môn) là thuộc về cơ tình. Quy mạng trong niệm Phật (tức Hoằng nguyện môn) là thuộc về Phật thể. Trong đó, quy mạng trong niệm Phật khởi nhân ở Phật thể, trước lấy giác thể của Phật A-di-đà, vì hàng phàm phu chúng ta quý tiếc thân mạng đời này, cho nên dạy pháp tự nhiếp thành Phật, hiện nay mới được quy mạng. Nhưng nếu lãnh ngộ được Phật thể của Phật A-di-đà thì thành tựu vãng sanh; đó là thể nhất tâm hồi hướng phát nguyện vãng sanh Tịnh độ”. Nhờ đây mà chúng sanh thành tựu tức là giác thể.

Nam mô này chính là thể của chúng ta, tức là ba tâm. Cho nên lãnh ngộ được Nam mô này là đầy đủ danh hiệu A-di-đà Phật, tức là thành tựu vãng sanh, cho đến tha lực cũng không dựa theo tùy cơ cảm ứng. Vì không dựa theo tùy cơ cảm ứng cho nên nhất hướng khởi nhân nơi Phật thể.

Lại nữa An tâm quyết định sao nói: “Phật A-di-đà thành tựu hạnh nguyện phàm phu thì nói là ba tâm lãnh giải, cũng giải thích là ba tín, cũng gọi là tín tâm”. Vì Phật A-di-đà thành tựu hạnh nguyện phàm phu, cho nên thành pháp môn danh hiệu, dùng khẩu nghiệp xưng niệm Nam mô A-di-đà Phật, cho nên lãnh giải rồi cũng không trụ vào cơ tình. Nếu lãnh giải được tức là quy về nguyện Phật thể danh hiệu, cũng không trụ vào cơ tình, chỉ xưng danh hiệu thì có thể quy về Hoằng nguyện môn là ý này vậy. Ba tâm tức là tâm xả bỏ tự lực mà quy về tha lực Hoằng nguyện môn. Vị Quán môn tạm thời thuộc về cơ tình, tuy gọi là phát nguyện, nhưng nếu quy về quan điểm hoằng nguyện thì ở trong Phật thể có quy mạng, phải có tỉnh giác điều này. Hạnh nguyện của chúng sanh vãng sanh đều được thành tựu nhờ danh hiệu.

Vì thế, ngài Hạnh Tây lấy hạnh nguyện xưa nay vốn đầy đủ. Bất luận là đủ hay thiếu đều đồng một cách nói. Đặc biệt trong văn này nói “Nam mô” chính là thể của chúng ta. “Nam mô” này thành tựu đủ danh hiệu của Phật A-di-đà, nói tâm đắc điều này thì có phần vãng sanh. Trong địa vị phàm phu có dáng dấp Nam mô A-di-đà Phật thành Phật, không có nghi ngờ; đây là hiển thị thuyết tư tưởng bản giác. Do đó, ngài Chứng Không lấy sự thành tựu vãng sanhChánh giácđồng thời nhất thể. Hạnh nguyện của chúng sanh vãng sanh đều ở trong Phật thể mà thành tựu; cho nên chúng ta không cần vận dụng ba nghiệp hành tự lực, chỉ cần nghe danh hiệu (pháp) và hiểu rõ được thì có thể thành người được sanh về báo độ; đây chính là nội dung của thuyết ba tâm lãnh giải.

 

Tiết thứ năm

Tu hành sau khi tin

Như thế, ngài Chứng Không chú trọng an tâm lãnh giải, cho nên trước khi chưa phát ba tâm thì bất luận khởi nghiệp tu hành như thế nào cũng là hạnh hư giả tạp độc không thể vãng sanh. Nhưng phải đợi phát khởi ba tâm, tâm lãnh giải quy về hoằng nguyện, một khi xóa sạch cơ tình tự lực, công đức niệm Phật ở bên trong bản nguyện thì định thiệntán thiện đều được tịnh hóa, nói đây đều là nhân được sanh về Tịnh độ. Tán thiện quán môn nghĩa sao quyển 3 giải thích: “Vì ba tâm đã đủ thì không có hạnh nào mà không thành, không có hạnh nào không thành thì giải hạnh thanh tịnh, ngộ đủ ba tâm rồi thì hạnh nghiệp ắt được thành tựu”. Thể của hạnh này là bốn chữ “A-di-đà Phật”, là chính hạnhý giải vãng sanh, nói tất cả các hạnh nghiệp đều là giáo hạnh của vãng sanh.

Tán thiện nghĩa tha bút sao quyển thượng cũng nói: “Theo cơ tình là nhân hạnh tùy duyên tự lực, cho nên gọi nghiệp tạp tán. Y theo pháp thể, danh hiệu trở thành đầy đủ đức; cho nên tu hành trong chính niệm được gọi là chính nhân chính hạnh”.

Nếu thông qua cửa ải lãnh giải thì trong hai hạnh định thiệntán thiện hiển thị tính của pháp thể bản nhiên đều cho rằng đây là chính hạnh vãng sanh, không còn nghi ngờ; đây là chuyển dụng cách nói “khai mở tam thừa quy về nhất thừa” trong kinh Pháp hoa. Đây là ngài Chứng Không làm sống lại định thiệntán thiện đã bị phế bỏ ở bên trong bản nguyện niệm Phật, đều là hạnh nghiệp sau khi tin phải tu.

Nói do nghiệp này mà chiêu cảm quả báo sai khác nhau của chín phẩm Tịnh độ; hoặc gọi là hạnh báo đáp ân Phật. Tán thiện nghĩa tha bút sao quyển thượng nói: “Chín phẩm cùng sanh về báo độ là quả, là tổng thể. Nhưng trong một quả có sự sai biệt của quả báo chín phẩm, vì hoa có xấu đẹp, nở búp có chậm mau, được lợi íchsớm muộn, quả báo này là biệt tướng”. Đây là do y theo nhân mà được quả, theo sự thực hành mà cảm được quả báo. Y theo chính nhân ba tâm mà được quả cùng sanh về báo độ. Do ba phúc chính hạnhchiêu cảm quả báo chín phẩm sai biệt, tức là sau khi tin thì ba nghiệp khởi hạnh làm nhân của chín phẩm có quả báo sai khác.

Nhưng ngoài ba tâm chính nhân còn lập riêng ba phúc chính hạnh, ở đây có nhân chín phẩm sai biệt, cho dù là quả báo khác biệt nhưng cho đó là một loại sanh nhân, cho nên không thể nói là mâu thuẫn với thuyết ‘Phật thể tức là hành’. Nếu vãng sanhChính giác đồng thời nhất thể thành tựu, lẽ ra ngoài ba tâm lãnh giải thì không còn có bất kỳ nhân vãng sanh nào khác nữa. Y theo ba tâm tịnh hóa đã hành, tức là chính hạnh trong chính nhân, nếu còn gánh thêm một nhiệm vụ nào nữa thì không thể không nói là phá hoại lập trường căn bản của ‘Phật thể tức là hành’.

 

Tiết thứ sáu

Báo đáp ân Phật

Lại nữa, trong Tuyển tập bí sao quyển 3 của ngài Hành Quán, có nói hạnh báo đáp ân Phật, chia ra làm chính hạnh và trợ hạnh, trong an tâm quyết định sanh ra khởi hạnh của ba nghiệp, lấy thuyết này làm báo đáp ân Phật. Thuyết báo ân niệm Phật vốn do ngài Hạnh Tây đề xướng. Về sau, ngài Thân Loan cũng kế thừa thuyết này, vui thích quyết định vãng sanh, bày tỏ lòng chân thành báo đáp ân Phật là điều rất đáng quý. Hành vi báo ân Phật xuất phát từ ngài Thiện Đạo chỉ dạy, nếu mình tin thì dạy người cũng tin. Tín hạnh này rất là thiết thực; bằng không, cho dù xây dựng tháp, giảng đường, tán thán, cúng dường cũng được. Hiện nay đã tu hai hạnh định thiệntán thiện, lại lấy xưng danh danh hiệu Phật, niệm Phật làm hạnh báo ân, có thể nói khiến cho mọi người khó mà hiểu được.

Hai hạnh định thiệntán thiện vốn là nói hành môn của vãng sanh, xưng danh niệm Phật được quy định đặc biệt là hạnh sanh nhân của tuyển trạch bản nguyện. Không những cho rằng các điều này đều là chính nhân vãng sanh, mà còn tuyệt đối bài xích pháp của hành môn tự lực, đến sau khi an tâm lãnh giải rồi, mới phục hồi nó thì gọi là hạnh báo đáp ân Phật. Lấy hạnh này để khuyên bảo hành giả tinh tiến tu hành nhưng trong văn hiến của chư Tổ chưa từng thấy truyền. Đề xướng như thế là cách nói khiến cho mọi người không hiểu rõ; đây là khuyết điểm của phái chủ trương an tâm lãnh giải. Vì phái chủ trương an tâm cho rằng đã thành tựu sự nghiệp vãng sanh thì cũng đã đạt được mục đích của họ, nên không cần khuyên mọi người tín ngưỡng tu hành sau khi tin. Nhưng nói hạnh báo ân, hoặc cho rằng niệm Phậtquả báo sai khác của chín phẩm v.v… đều phải thu hồi. Căn cứ theo lí do này thì một mặt khó tránh khỏi sự phê phán sau khi sanh niềm tin không chịu tu hành, một mặt cho rằng đó là kết quả cuối cùng bản nguyện niệm Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18961)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14452)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13589)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13666)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13940)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16165)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11908)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17600)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12880)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16393)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13133)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12093)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12775)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12792)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14123)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16481)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14390)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11332)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13509)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16270)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12767)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12621)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant