Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

19. Chương Thứ Mười Chín

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12768)
19. Chương Thứ Mười Chín
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương thứ mười chín

Thuyết lãnh giải ba tâm và Phật thể tức là hành

Tiết thứ nhất

Chủ trương của phái Tây Sơn

Ngài Hạnh Tây theo tư tưởng bản giác của tông Thiên Thai đề xướng nghĩa mới ‘Phật trí nhất niệm’. Nhưng ngài Pháp Nhiên cùng với đệ tử phái chính thống ra sức bài xích, cho rằng những điều này là không đúng. Mặc dù bị bài xích như thế, nhưng hai ngài Chứng KhôngThân Loan lại đồng tình với ngài Hạnh Tây, lại nghiên cứu sâu vấn đề an tâm lãnh giải. Bởi vì, ngài Hạnh Tây cho rằng hàng phàm phu chúng ta vốn là vô thỉ bản giác Như Lai, khi ngộ giải lí này thì quyết định vãng sanh.

Bốn mươi tám nguyệnphương tiện thùy tích, không phải là chân thật; đây là thuyết dựa vào pháp môn bản giác. Về điều này, ngài Chứng Không lấy Di-đà đã thành Chính giác cách đây mười kiếp gọi là Tích môn Di-đà làm chủ thể. Di-đà thành tựu Chính giác, đồng thời chúng sanh vãng sanh cũng đã thành tựu; đây là theo thuyết bản vị tích môn.

 

Tiết thứ hai

Thuyết ba tâm và tâm lãnh giải

Nay ngài Chứng Không nói giống với ngài Long Khoan cho rằng ba tâm là xả bỏ tự lực mà quy về tha lực; vả lại, ba tâm này đều gọi là lãnh giải hoằng nguyện, là tâm lãnh giải. Ngài Chứng Không trứ tác Quán kinh tán thiện nghĩa tha bút sao quyển thượng, giải thích Chí thành tâm, Chân thật tâm là tâm lãnh giải. Tâm lãnh giải là tâm xả bỏ tự lực, quy về tha lực. Ngài lại giải thích Thâm tâmtín tâm, tức là hai loại tâm tín cơ và tâm tín pháp:

1. Tâm tín cơ: Tin biết tự thân là địa vị quyết định phàm phu thấp kém không có thiện nghiệp, tức là trong Chí thành tâm ở văn trên khuyên răn địa vị quyết định phàm phu chưa hiện khởi tướng hiền thiện, tinh tiến tức là Thâm tâm xả bỏ tự lực.

2. Tâm tín pháp: Là nương theo nguyện lực của Di-đà quyết định tưởng niệm vãng sanh, tức là Chân thật tâm của văn trên nói là quy về tha lực, quyết định tha thiết tín tâm.

Ngài lại giải thích Hồi hướng phát nguyện tâm, trong một tâm lãnh giải chia làm ba tâm. Tâm thứ nhất là hạnh đáng ghét thuộc tạp độc hư giả. Tâm thứ hai là tâm tin vào bản nguyện Di-đà. Một khi chán ghét tự lực, tâm tín ngưỡng tha lực, chỉ cầu vãng sanhhiển thị tâm thứ ba. Ba tâm mà thiếu một tâm thì không được vãng sanh.

Lấy Chí thành tâm xả bỏ tự lực quy về tâm tha lực, lấy Thâm tâm quy về tha lực mà sanh tín tâm tha thiết chân thật, lấy Hồi hướng phát nguyện tâm làm tâm chán ghét tự lực tin sâu tha lực (Phật lực) hiển thị chỉ có pháp môn này mới được vãng sanh, ba tâm đều quy về tâm tha lực.

Ngài Chứng Không lấy ba tâm này để giải thích tâm lãnh giải, sau khi nghe giải thích thì xả bỏ tự lực quy về tha lực mà được ba tâm này. Ngài Long Khoan cũng lấy ba tâm này làm tâm quy về tha lực. Nhưng ngài nói ngoài tha lực tín ngưỡng bản nguyện Phật Di-đà ra thì không còn có bất kỳ sự vật nào, nên không nói có tâm lãnh giải. Ngài Hạnh Tây chủ trương cần phải lấy lãnh giải làm điều kiện chủ yếu. Nhưng thuyết ba tâm và tâm lãnh giải dường như có bất đồng. Nay ngài Chứng Không hợp lấy hai thuyết đề xướng thuyết ba tâm và tâm lãnh giải.

 

Tiết thứ ba

Thuyết Phật thể tức là hành

Làm thế nào lãnh giải việc này, nói chung tất cả phàm phu thiện ác không thể dùng pháp của hành môn tự lựcđược giải thoát, chỉ có tin sâu nương vào hoằng nguyện của Phật Di-đà thì mới được vãng sanh về báo độ.

Bởi vì, ngài Chứng Không phân tích giáo nghĩa của một đời của Phật Thích-ca làm ba môn là Hành môn, Quán môn và Hoằng nguyện môn. Trước Quán kinh thì các kinh đã nói tám vạn pháp môn tu hành, gọi chung là pháp hành tự lực thánh đạo môn. Quán kinh nói: “Xả bỏ hành môn tự lực quy về thệ nguyện của Phật làm ý nghĩa chủ yếu, đó là Quán môn.

Đại bản Di-đà nói ngay bản nguyện Di-đà thì gọi đó là Hoằng nguyện môn. Hoằng nguyện là quy kết một đời Đức Phật giáo hóa, nếu không quay về với Di-đà thì hàng phàm phu chắc chắn không được giải thoát. Chủ yếu của hoằng nguyện là chỉ nguyện thứ mười tám. Ngài Chứng Không lấy trọng điểm đặc biệt “Nếu không được vãng sanh thì Ta thề không thành Chính giác”. Câu nói này, lấy việc vãng sanh của hàng phàm phu chúng ta làm đối tượng mà phát nguyện thành tựu chính giác của Như Lai. Nhưng Như Lai đã thành Chính giác từ mười kiếp trước kia chính là Phật A-di-đà. Chúng sanh vãng sanhNhư Lai thành tựu Chính giác chắc chắnđồng thời. Cho nên đề xướng thuyết vãng sanhChính giác đồng thời nhất thể thành tựu.

Ở đây cho rằng hàng phàm phu chúng ta đủ tư cách vãng sanh về báo độ từ mười kiếp xa xưa. Thuyết này tuy có bất đồng với thuyết vô thỉ bản giác của ngài Hạnh Tây, nhưng đồng sanh ra từ tư tưởng bản giác; đây là điều không còn nghi ngờ.

Quán kinh huyền nghĩa phần của ngài Chứng Không nói: “Nam mô tức là quy y, cho đến Nam mô A-di-đà Phật tức là hành”, đó là kiến lập thuyết Phật thể tức là hành. Phật A-di-đà có tự thể thành Phật Chính giác, đồng thời cũng có hành tức là thể, cho nên thành tựu chúng sanh vãng sanh, là dựa vào luận cứ vãng sanhChính giác đồng thời thành tựu này.

An tâm quyết nghi sao nói rõ ý này: “Đức Phật thay chúng sanh tu nguyện hạnh viên mãn, nên có thể làm cho chúng ta được vãng sanh. Lúc nguyện và hạnh chúng sanh trong mười phương viên mãn vãng sanh thành tựu thì thành tựu Chính giác của Nam mô A-di-đà Phật nhất thể với cơ và pháp”. Ở đây nói chính giác của Phật tức là sự vãng sanh của phàm phu. Khi chúng sanh trong mười phương vãng sanh thành tựu, gọi là Phật đã thành Chính giác. Phật thành Chính giác, chúng ta vãng sanh thành tựu, nói hai điều này là cùng một lúc.

 

Tiết thứ tư

Phát nguyệnquy mạng

Ngài Chứng Không giải thích ba tâm từ hai phương diện Quán môn và Hoằng nguyện môn. Nói từ quan điểm Quán môn, ba tâm tức là tâm chúng sanh đã phát. Nhưng pháp thể của hoằng nguyện, nếu theo thuyết Nam mô trong Nam mô A-di-đà Phật thì cũng thành tựu trên Phật vị. Sáu chữ danh hiệu kia là danh hiệu cơ, pháp nhất thể.

Huyền nghĩa quán môn nghĩa sao quyển 1 của ngài Chứng Không trứ tác nói: “Phát nguyện là ý nghĩa Quán môn tuy rộng, nhưng Phật chỉ dạy phải quy về trong Hoằng nguyện, tức là tương đương với ba tâm. Ba tâm này chưa quy về Hoằng nguyện thì khi an trụ ở Quán môn được gọi chung là phát nguyện. Đã quy về Hoằng nguyện thì chỉ cho quy mạng. Ba tâm tuy là một pháp, nếu chia vị khác biệt Quán môn và Hoằng nguyện môn thì cũng phải lấy phát nguyệnquy mạng làm tên để phân biệt”.

Trong Thuật thành do ngài trứ tác có trình bày ý này: “Quy mạng trong quán Phật (tức Quán môn) là thuộc về cơ tình. Quy mạng trong niệm Phật (tức Hoằng nguyện môn) là thuộc về Phật thể. Trong đó, quy mạng trong niệm Phật khởi nhân ở Phật thể, trước lấy giác thể của Phật A-di-đà, vì hàng phàm phu chúng ta quý tiếc thân mạng đời này, cho nên dạy pháp tự nhiếp thành Phật, hiện nay mới được quy mạng. Nhưng nếu lãnh ngộ được Phật thể của Phật A-di-đà thì thành tựu vãng sanh; đó là thể nhất tâm hồi hướng phát nguyện vãng sanh Tịnh độ”. Nhờ đây mà chúng sanh thành tựu tức là giác thể.

Nam mô này chính là thể của chúng ta, tức là ba tâm. Cho nên lãnh ngộ được Nam mô này là đầy đủ danh hiệu A-di-đà Phật, tức là thành tựu vãng sanh, cho đến tha lực cũng không dựa theo tùy cơ cảm ứng. Vì không dựa theo tùy cơ cảm ứng cho nên nhất hướng khởi nhân nơi Phật thể.

Lại nữa An tâm quyết định sao nói: “Phật A-di-đà thành tựu hạnh nguyện phàm phu thì nói là ba tâm lãnh giải, cũng giải thích là ba tín, cũng gọi là tín tâm”. Vì Phật A-di-đà thành tựu hạnh nguyện phàm phu, cho nên thành pháp môn danh hiệu, dùng khẩu nghiệp xưng niệm Nam mô A-di-đà Phật, cho nên lãnh giải rồi cũng không trụ vào cơ tình. Nếu lãnh giải được tức là quy về nguyện Phật thể danh hiệu, cũng không trụ vào cơ tình, chỉ xưng danh hiệu thì có thể quy về Hoằng nguyện môn là ý này vậy. Ba tâm tức là tâm xả bỏ tự lực mà quy về tha lực Hoằng nguyện môn. Vị Quán môn tạm thời thuộc về cơ tình, tuy gọi là phát nguyện, nhưng nếu quy về quan điểm hoằng nguyện thì ở trong Phật thể có quy mạng, phải có tỉnh giác điều này. Hạnh nguyện của chúng sanh vãng sanh đều được thành tựu nhờ danh hiệu.

Vì thế, ngài Hạnh Tây lấy hạnh nguyện xưa nay vốn đầy đủ. Bất luận là đủ hay thiếu đều đồng một cách nói. Đặc biệt trong văn này nói “Nam mô” chính là thể của chúng ta. “Nam mô” này thành tựu đủ danh hiệu của Phật A-di-đà, nói tâm đắc điều này thì có phần vãng sanh. Trong địa vị phàm phu có dáng dấp Nam mô A-di-đà Phật thành Phật, không có nghi ngờ; đây là hiển thị thuyết tư tưởng bản giác. Do đó, ngài Chứng Không lấy sự thành tựu vãng sanhChánh giácđồng thời nhất thể. Hạnh nguyện của chúng sanh vãng sanh đều ở trong Phật thể mà thành tựu; cho nên chúng ta không cần vận dụng ba nghiệp hành tự lực, chỉ cần nghe danh hiệu (pháp) và hiểu rõ được thì có thể thành người được sanh về báo độ; đây chính là nội dung của thuyết ba tâm lãnh giải.

 

Tiết thứ năm

Tu hành sau khi tin

Như thế, ngài Chứng Không chú trọng an tâm lãnh giải, cho nên trước khi chưa phát ba tâm thì bất luận khởi nghiệp tu hành như thế nào cũng là hạnh hư giả tạp độc không thể vãng sanh. Nhưng phải đợi phát khởi ba tâm, tâm lãnh giải quy về hoằng nguyện, một khi xóa sạch cơ tình tự lực, công đức niệm Phật ở bên trong bản nguyện thì định thiệntán thiện đều được tịnh hóa, nói đây đều là nhân được sanh về Tịnh độ. Tán thiện quán môn nghĩa sao quyển 3 giải thích: “Vì ba tâm đã đủ thì không có hạnh nào mà không thành, không có hạnh nào không thành thì giải hạnh thanh tịnh, ngộ đủ ba tâm rồi thì hạnh nghiệp ắt được thành tựu”. Thể của hạnh này là bốn chữ “A-di-đà Phật”, là chính hạnhý giải vãng sanh, nói tất cả các hạnh nghiệp đều là giáo hạnh của vãng sanh.

Tán thiện nghĩa tha bút sao quyển thượng cũng nói: “Theo cơ tình là nhân hạnh tùy duyên tự lực, cho nên gọi nghiệp tạp tán. Y theo pháp thể, danh hiệu trở thành đầy đủ đức; cho nên tu hành trong chính niệm được gọi là chính nhân chính hạnh”.

Nếu thông qua cửa ải lãnh giải thì trong hai hạnh định thiệntán thiện hiển thị tính của pháp thể bản nhiên đều cho rằng đây là chính hạnh vãng sanh, không còn nghi ngờ; đây là chuyển dụng cách nói “khai mở tam thừa quy về nhất thừa” trong kinh Pháp hoa. Đây là ngài Chứng Không làm sống lại định thiệntán thiện đã bị phế bỏ ở bên trong bản nguyện niệm Phật, đều là hạnh nghiệp sau khi tin phải tu.

Nói do nghiệp này mà chiêu cảm quả báo sai khác nhau của chín phẩm Tịnh độ; hoặc gọi là hạnh báo đáp ân Phật. Tán thiện nghĩa tha bút sao quyển thượng nói: “Chín phẩm cùng sanh về báo độ là quả, là tổng thể. Nhưng trong một quả có sự sai biệt của quả báo chín phẩm, vì hoa có xấu đẹp, nở búp có chậm mau, được lợi íchsớm muộn, quả báo này là biệt tướng”. Đây là do y theo nhân mà được quả, theo sự thực hành mà cảm được quả báo. Y theo chính nhân ba tâm mà được quả cùng sanh về báo độ. Do ba phúc chính hạnhchiêu cảm quả báo chín phẩm sai biệt, tức là sau khi tin thì ba nghiệp khởi hạnh làm nhân của chín phẩm có quả báo sai khác.

Nhưng ngoài ba tâm chính nhân còn lập riêng ba phúc chính hạnh, ở đây có nhân chín phẩm sai biệt, cho dù là quả báo khác biệt nhưng cho đó là một loại sanh nhân, cho nên không thể nói là mâu thuẫn với thuyết ‘Phật thể tức là hành’. Nếu vãng sanhChính giác đồng thời nhất thể thành tựu, lẽ ra ngoài ba tâm lãnh giải thì không còn có bất kỳ nhân vãng sanh nào khác nữa. Y theo ba tâm tịnh hóa đã hành, tức là chính hạnh trong chính nhân, nếu còn gánh thêm một nhiệm vụ nào nữa thì không thể không nói là phá hoại lập trường căn bản của ‘Phật thể tức là hành’.

 

Tiết thứ sáu

Báo đáp ân Phật

Lại nữa, trong Tuyển tập bí sao quyển 3 của ngài Hành Quán, có nói hạnh báo đáp ân Phật, chia ra làm chính hạnh và trợ hạnh, trong an tâm quyết định sanh ra khởi hạnh của ba nghiệp, lấy thuyết này làm báo đáp ân Phật. Thuyết báo ân niệm Phật vốn do ngài Hạnh Tây đề xướng. Về sau, ngài Thân Loan cũng kế thừa thuyết này, vui thích quyết định vãng sanh, bày tỏ lòng chân thành báo đáp ân Phật là điều rất đáng quý. Hành vi báo ân Phật xuất phát từ ngài Thiện Đạo chỉ dạy, nếu mình tin thì dạy người cũng tin. Tín hạnh này rất là thiết thực; bằng không, cho dù xây dựng tháp, giảng đường, tán thán, cúng dường cũng được. Hiện nay đã tu hai hạnh định thiệntán thiện, lại lấy xưng danh danh hiệu Phật, niệm Phật làm hạnh báo ân, có thể nói khiến cho mọi người khó mà hiểu được.

Hai hạnh định thiệntán thiện vốn là nói hành môn của vãng sanh, xưng danh niệm Phật được quy định đặc biệt là hạnh sanh nhân của tuyển trạch bản nguyện. Không những cho rằng các điều này đều là chính nhân vãng sanh, mà còn tuyệt đối bài xích pháp của hành môn tự lực, đến sau khi an tâm lãnh giải rồi, mới phục hồi nó thì gọi là hạnh báo đáp ân Phật. Lấy hạnh này để khuyên bảo hành giả tinh tiến tu hành nhưng trong văn hiến của chư Tổ chưa từng thấy truyền. Đề xướng như thế là cách nói khiến cho mọi người không hiểu rõ; đây là khuyết điểm của phái chủ trương an tâm lãnh giải. Vì phái chủ trương an tâm cho rằng đã thành tựu sự nghiệp vãng sanh thì cũng đã đạt được mục đích của họ, nên không cần khuyên mọi người tín ngưỡng tu hành sau khi tin. Nhưng nói hạnh báo ân, hoặc cho rằng niệm Phậtquả báo sai khác của chín phẩm v.v… đều phải thu hồi. Căn cứ theo lí do này thì một mặt khó tránh khỏi sự phê phán sau khi sanh niềm tin không chịu tu hành, một mặt cho rằng đó là kết quả cuối cùng bản nguyện niệm Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11635)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11344)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12560)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17980)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11727)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9947)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15341)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12001)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11184)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13172)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12681)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16577)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12669)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11850)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10902)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11951)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11635)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12767)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9872)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18016)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13050)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant