Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

04. Phẩm Vô Cấu Tính

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10174)
04. Phẩm Vô Cấu Tính

KINH ĐẠI-THỪA BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN
Đường, Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

IV.- PHẨM VÔ-CẤU-TÍNH [1] 

Khi Trưởng-giả Trí-Quang cùng các Trưởng-giả khác đã xuất-gia rồi, tề-chỉnh pháp-phục năm thể gieo xuống đất, lễ xuống chân Phật, chắp tay cung-kính bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi theo Phật, nghe được những điều chửa được nghe về các lỗi-lầm sở-hữu của tại-gia; chúng tôi phát tâm Bồ-đề, chán, bỏ thế-gian, cạo bỏ râu tóc làm Tỷ-khưu. Chúng tôi kính xin Như-Lai, Ứng Chính đẳng-giác vì bọn chúng tôi và các chúng-sinh diễn nói về công-đức thù-thắng của sự xuất-gia, khiến người được nghe, phát tâm thanh-tịnh, thích hạnh viễn-ly, làm cho Phật-chủng không dứt: Thế-Tôn là bậc có ơn lớn, Ngài vận vô-duyên từ-bi [2] thương-xót chúng-sinh như ông La-hầu-la, [3] nay kính xin Thế-Tôn cho chúng tôi biết: Bồ-tát xuất-gia nên an-trụ thế nào? Nên tu-tập nghiệp vô-cấu thế nào? Và, nên điều-phục tâm hữu-lậu thế nào?” [4] 

Bấy giờ, đức Thế-Tôn tán-thán Trí-Quang cùng các Tỷ-khưu: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông thực là chân Phật-tử! Các ông vì hết thảy chúng-sinh đời mai sau hỏi Như-Lai những việc như thế. Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời các ông nói, Như-Lai Thế-Tôn thương-xót chúng-sinh, bình-đẳng vô nhị cũng như con một. Nay các ông nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, Tôi nay sẽ vì các ông phân-biệt diễn nói về Bồ-tát xuất-gia an-trụ như thế này, tu-hành nghiệp Vô-cấu như thế này, điều-phục tâm hữu-lậu như thế này”. Các Tỷ-khưu bạch: “Dạ, bạch Thế-tôn! Chúng tôi nguyện muốn được nghe lời đức Thế-Tôn dạy!”

Đức Phật bảo Trí-Quang Tỷ-khưu: “Bồ-tát xuất-gia an-trụ tâm như thế, thời thường quán như thế này: Ta được thân người, các căn đầy-đủ, vậy ta từ nơi nào mất đi, mà sinh lại thế-gian này? Ta ở trong ba cõi, rồi sẽ sinh vào cõi nào? Trong bốn đại-châu, ta sẽ sinh vào châu nào? Trong sáu đạo, ta sẽ thụ-sinh vào đạo nào? Bởi nhân-duyên gì, ta bỏ được cha mẹ, vợ con họ-hàng xuất-gia tu đạo, thân khỏi vướng vào tám nạn? Trong kiếp Trang-nghiêm thuở quá-khứ, nghìn Phật đều nhập Niết-bàn rồi, trong kiếp Tinh-tú thuở vị-lai, nghìn Phật chưa ra đời, trong Hiền-kiếp hiện-tại nghìn Phật, bao nhiêu Phật Như-Lai đã xuất-hiện ra đời, hóa-duyên sắp hết và sắp nhập Bát-niết-bàn? Bao nhiêu Phật Thế-Tôn chưa ra đời, là do căn-duyên của các chúng-sinh chưa chín, chưa được nghe chính-pháp chăng? Lại, thời nào trong đương-lai Ngài Di-Lặc từ cõi trời Đâu-suất sinh xuống nhân-gian và hiện thành Phật-đạo? Trong thân ta có nghiệp thiện gì? Học giới, định, tuệ sẽ có đức gì? Chư Phật quá-khứ đều đã chẳng gặp, Thế-tôn đương-lai liệu được thấy chăng? Ta nay hiện ở trong các nơi phàm-phu, vậy ba nghiệp phiền-não, gì là nặng hơn? Nhất sinh trở lại ta tạo tội-nghiệp gì? Ta từng trồng căn lành ở nơi đức Phật nào? Thân-mệnh ta đây được bao nhiêu thời? Ngày nay đã qua, mệnh theo giảm bớt, cũng như người dắt dê tới chỗ mổ xẻ, dần dần đến chỗ chết, không còn nơi trốn-tránh, vậy khi thân hoại, mệnh hết sẽ sinh vào nơi nào? Khổ trong ba đường ác làm sao thoát khỏi được? Thân ta đây ta yêu thích và nuôi-nấng nó cho nó hơn lên nhưng, từng niệm niệm nó suy, già đi, không có thời nào tạm dừng, vậy ai là người có trí-tuệ lại yêu thích thân này? Trí-Quang nên biết: Bồ-tát xuất-gia ngày đêm thường quán-sát như thế, đừng tham hưởng năm dục-lạc của thế-gian, cần tinh siêng tu-tập, đừng thường thường tạm bỏ và phải coi như là cần phải bỏ đá nặng nơi đỉnh đầu, gỡ lửa cháy trên đầu. Tâm thường sám-hối những tội trước của quá-khứ, an-trụ vào bốn vô-cấu-tính, một lòng tu-hành mười hai hạnh Đầu-đà, [5] điều-phục tâm mình như bọn Chiên-đà-la. [6] Phật-tử như thế gọi là xuất-gia.

Tỷ-khưu Trí-Quang! Vì nghĩa gì gọi người chân-thực tu hạnh Sa-môn như bọn Chiên-đà-la? - Vì mỗi khi người Chiên-đà-la du-hành, tay cầm cây tích-trượng, không dám đi giữa đường, nếu có người đi gần sát tới mình thời rung gậy tích cho người ta nghe thấy tránh đi. Ở trong đại-chúng, tâm họ thực-hành sự nhún-nhường, không dám khinh-mạn, khi bị người quở-trách, tâm không oán-hận và chưa từng bao giờ báo-thù lại, ngay đến bị mạ-nhục, đánh-đập cũng im-lặng chịu đựng. Sao vậy? - Tự biết mình thuộc dòng họ thấp-hèn, không dự vào bậc gì trong hàng đại-chúng, bởi nhân-duyên ấy nên bị những sự giận-tức mà không báo-thù lại.

Trí-Quang nên biết! Bồ-tát xuất-gia cũng như thế, cạo bỏ râu tóc, hình-dáng cũng như đứa trẻ thơ, tay cầm giữ đồ ứng-khí (bình-bát), nương-tựa vào người để nuôi sống thân-mệnh, thân mặc áo ca-sa [7] như mặc giáp-trụ, cầm gậy tích đi, như cầm dáo-mác, cầm gươm trí-tuệ, phá giặc phiền-não, tu hạnh như đứa trẻ thơ, làm lợi-ích cho hết thảy. Thế nên, hết thảy tên nhọn tham, sân, si không thể vào thân bậc Sa-môn chân-thực được. Bồ-tát xuất-gia dùng ba môn quán, tu hạnh nhẫn-nhục là chân-xuất-gia: quán các chúng-sinh là hóa-thân của Phật, quán nơi thân mình là ngu-phu thực; quán các hữu-tình khởi ra tưởng là bậc tôn-quý, quán nơi thân mình khởi ra tưởng là hàng tôi-tớ; lại quán chúng-sinh khởi ra tưởng coi chúng-sinh như cha mẹ, quán nơi thân mình khởi ra tưởng coi mình như con trai, con gái. Bồ-tát xuất-gia thường làm những quán ấy, hoặc bị người đánh mắng, hoàn-toàn không báo-thù lại, mà chỉ tìm phương-tiện khéo-léo để điều-phục tâm mình.

Tỷ-khưu Trí-Quang! Các ông nghe kỹ! Thế nào là bốn vô-cấu-tính? - Là: Quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men. Bốn sự như thế tùy theo chỗ có được, hoặc xấu hoặc tốt cũng vừa lòng, xa-lìa hẳn tâm tham-cầu, thế là “vô-cấu-tính”. Các Tỷ-khưu! Bởi nhân-duyên gì bốn hạnh như thế gọi là “vô-cấu-tính”? Trí-Quang nên biết! Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề-phận-pháp [8] của chư Phật Như-Lai đều từ đấy phát-sinh và Phật, Pháp, Tăng-bảo do đó mà thường không bị đoạn-tuyệt, nên được gọi là “vô-cấu-tính”. [9] 

Khi ấy, đức Thế-Tôn nói kệ rằng:
Tỷ-khưu Trí-Quang ông nghe kỹ!
Bồ-tát xuất-gia cần nên làm:
Vô-duyên đại-từ nhiếp chúng-sinh,
Cũng như con một đều bình-đẳng.
Phát tâm Bồ-đề cầu chính-giác,
Nên làm ba việc thành Phật-pháp:
Tâm thường-trụ bốn vô-cấu-tính;
Nên tu mười hai hạnh Đầu-đà,
Nhún lòng như bọn Chiên-đà-la.
Trong bốn uy-nghi nghĩ thế này:
Mười phương vô-lượng các Bồ-tát;
Sát-na, sát-na hướng Thánh-đạo,
Các vị tu chứng, ta cũng thế!
Làm sao lưu-chuyển trong ba cõi,
Thường trong sinh-tử vô-lượng khổ?
Nay thân ta này ở cõi nào?
Sáu đạo luân-hồi ở đạo nào?
Thai, noãn, thấp, hóa [10] nhận loài nào?
Thân, khẩu, ý-nghiệp tu nghiệp nào?
Trong chỗ tạo tội, tội gì nặng?
Tâm trong ba tính, [11] tâm nào nhiều?
Quán-sát vi-tế như thế rồi,
Đại-từ, đại-bi thường tiếp nối;
Đại-hỷ, đại-xả, tâm ấy trước,
Vì người có duyên nói diệu-pháp.
Ngày đêm tu tâm không ngừng tạm,
Như bỏ đá đầu, gỡ đầu cháy.
Niệm ba môn quán thường chẳng rời,
Quán các chúng-sinh là thân Phật;
Chỉ ta riêng ở trong phàm-loại,
Hết thảy chúng-sinh đều tôn-quý,
Ta làm tôi-tớ ở thấp-hèn;
Chúng-sinh trên đời như cha mẹ,
Ta như trai, gái lành hiếu-dưỡng.
Bị người đánh mắng chẳng giận hiềm,
Siêng tu nhẫn-nhục không ghen, oán.
Bốn sự cúng-dàng tâm không ham,
Như thế gọi là “vô-cấu-tính”.
Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề-phận,
Cùng được quả-báo thân Như-Lai;
Thù-thắng vô-lậu pháp như thế,
Bốn vô-cấu-tính là căn-bản.
Không hạnh buông-lung, thường tu-tập,
Thế là xuất-gia: Chân-phật-tử!
Mầm trí Bồ-đề niệm niệm thêm,
Vô-lậu Thánh-đạo đều thành-tựu.
Chóng vượt qua được vô-lượng kiếp,
Ngồi trên Hoa-vương [12] trong pháp-giới.
Phúc, trí trang-nghiêm đều viên-mãn,
Vô-biên kiếp-hải lợi quần-sinh;
Do vô-cấu-tính đều thành-thục,
Chứng thường-trụ-quả của Như-Lai. [13] 

Lại nữa, Tỷ-khưu Trí-Quang! Bồ-tát xuất-gia đối với vấn-đề y-phục, không nên tham-trước, dù tốt dù xấu tùy chỗ mình được thế nào nên vậy, thường thường đối với thí-chủ cần phải vì họ sinh ra ruộng phúc cho họ, chớ hiềm thô xấu và không được vì vấn-đề y-phục mà nói rộng pháp-yếu, khởi ra mọi phương-tiện tương-ứng với tâm tham.

Phàm-phu trong thế-gian vì vấn-đề y-phục tham-cầu phi-pháp, tạo nghiệp bất thiện, mà phải sa-đọa vào đường ác, trải vô-lượng kiếp không được gặp chư Phật, không được nghe chính-pháp. Chịu khổ trong các đường ác xong rồi, lại sinh trở lại nhân-gian, bị nghèo cùng khốn-khổ, cầu không được khổ, ngày đêm bức-bách, áo không đủ che hình, ăn không đủ giữ mệnh. Mọi khổ như thế đều do đời trước vì việc y-phục, giết nhiều sinh-mệnh, tạo ra nhiều tội.

Bồ-tát xuất-gia không thế, tùy chỗ mình được thế nào nên vậy, không hiềm thô-ác, chỉ mang lòng thẹn-hổ để sung-túc cho pháp-y, [14] được mười thắng-lợi: Một là, che thân mình, xa-lìa được sự xấu-hổ, đầy-đủ đức biết thẹn-hổ để tu-hành thiện-pháp. Hai là, xa-lìa sự lạnh, nóng , ruồi, muỗi, thú dữ, trùng độc, để an-ổn tu đạo. Ba là, hiện ra tướng mạo Sa-môn xuất-gia, người ta trông thấy sinh tâm vui-vẻ, xa-lìa được tâm tà-vạy. Bốn là, Ca-sa tức là bóng-dáng lá cờ báu của Nhân, Thiên, chúng-sinh tôn-trọng kính-lễ được sinh Phạm-thiên. Năm là, khi mặc Ca-sa tưởng-tượng là lá cờ báu, diệt được mọi tội, sinh mọi phúc-đức. Sáu là, bản-chế Ca-sa nhuộm thành hoại-sắc là để muốn xa-lìa năm dục-tưởng, không sinh tâm tham-ái. Bảy là, Ca-sa là áo thanh-tịnh của Phật, dứt hẳn được phiền-não, tạo ra ruộng phúc tốt lành. Tám là, thân mặc Ca-sa, tội nghiệp tiêu-trừ, mười thiện nghiệp-đạo, niệm niệm tăng-trưởng. Chín là, Ca-sa cũng như ruộng tốt hay làm tăng-trưởng Bồ-tát-đạo. Mười là, Ca-sa cũng như áo giáp, mũ trụ, tên độc phiền-não không hại được.

Trí-Quang nên biết! Bởi nhân-duyên ấy, chư Phật trong ba đời cùng các bậc Duyên-giác, Thanh-văn thanh-tịnh xuất-gia, thân đều mặc Ca-sa và ba bậc Thánh ấy đồng ngồi trong rừng báu giải-thoát, cầm gươm trí-tuệ, phá ma phiền-não, cùng vào các cõi Niết-bàn nhất-vị.

Lúc đó, đức Thế-Tôn nói bài kệ rằng:

Tỷ-khưu Trí-Quang nên nghe khéo!
Áo đại-phúc-điền mười thắng-lợi.
Y-phục thế-gian thêm dục-nhiễm,
Áo pháp Như-Lai không như thế.
Áo pháp ngăn đời sự thẹn-hổ,
Thẹn-hổ viên-mãn sinh ruộng phúc.
Xa-lìa rét, nắng và trùng độc,
Tâm-đạo vững bền được cứu-cánh.
Thị-hiện xuất-gia lìa tham-dục,
Dứt năm tà-kiến, [15] chính tu-trì.
Chiêm-lễ Ca-sa tướng bảo-chàng,
Cung-kính sinh phúc bậc Phạm-vương.
Phật-tử mặc áo tưởng như tháp,
Cảm Nhân, Thiên-phúc, tội tiêu-diệt.
Dáng nghiêm chí-kính; chân-sa-môn,
Chỗ làm không nhiễm theo trần-tục.
Chư Phật khen ngợi là ruộng tốt,
Lợi-lạc mọi loài đây hơn cả;
Thần-lực Ca-sa không nghĩ, bàn,
Hay khiến trồng tu Bồ-đề-hạnh.
Mầm đạo lớn thêm như lúa Xuân,
Diệu-quả Bồ-đề như trái Thu;
Kim-cương bền-vững thực giáp-trụ,
Tên độc phiền-não không hại được.
Tôi nay khen qua mười thắng-lợi, 
Nhiều kiếp nói rộng không hết được;
Nếu có thân rồng đeo một sợi,
Được thoát khỏi miệng chim trả ăn.
Nếu người qua bể mang áo này,
Không sợ các nạn quỷ, rồng, cá.
Sấm chớp ầm-ầm như trời giận,
Mặc áo Ca-sa không sợ hãi.
Tại-gia nếu hay thân kính giữ,
Hết thảy quỷ dữ không dám gần.
Nếu hay phát tâm cầu xuất-gia, 
Chán bỏ thế-gian, tu đạo Phật.
Ma-cung mười phương đều chấn-động,
Người ấy chứng thân Pháp-vương chóng. [16] 

Lại nữa, Bồ-tát Trí-Quang! Phật-tử xuất-gia thường làm hạnh khất-thực, dù rằng phải xả thân-mệnh, chứ không bao giờ dứt tâm ấy. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy chúng-sinh đều y trụ nơi ẩm-thực, bởi thế nên khất-thực lợi-ích vô cùng. Các ông nên biết! Bồ-tát xuất-gia thường đi khất-thực, vì nó có mười thắng-lợi. Những gì là mười? Một là, thường đi khất-thực để nuôi sống thân-mệnh mình, nhưng được xuất-nhập tự-do không bị hệ-thuộc vào người khác. Hai là, khi đi khất-thực, trước tiên nói diệu-pháp cho người ta nghe, khiến người ta khởi tâm thiện, sau mới xin thức-ăn cho mình. Ba là, vì những người không biết bố-thí, phát tâm đại-bi vì họ nói chính-pháp cho họ nghe, khiến họ khởi tâm xả-thí, mà sinh được thắng-phúc. Bốn là, làm theo lời Phật dạy để tăng-trưởng giới-phẩm, phúc-đức viên-mãn, trí-tuệ vô cùng. Năm là, thường đi khất-thực, đối với bảy mạn, chín mạn [17] tự-nhiên tiêu-diệt, mọi người cung-kính cho là ruộng phúc tốt lành. Sáu là, khi khất-thực sẽ được tướng “vô-kiến-đỉnh” [18] của Như-Lai, ứng-nhận sự cúng-dàng rộng lớn của thế-gian. Bảy là, Phật-tử các ông theo học pháp này, trụ-trì Tam-bảo, làm lợi-ích cho chúng-sinh. Tám là, khi khất-thực không được vì cầu thức ăn uống mà khởi ra tâm hy-vọng, khen ngợi hết thảy con trai, con gái. Chín là, khi đi khất-thực nên theo lần-lượt, không nên phân-biệt nhà nghèo, nhà giàu. Mười là, thường đi khất-thực chư Phật hoan-hỷ, được nhất-thiết-trí, là duyên lành hơn hết.

Bồ-tát Trí-Quang! Tôi vì các ông nói qua về mười sự lợi-ích như thế, nếu phân-biệt rộng ra thời vô-lượng vô-biên. Tỷ-khưu các ông, cùng những người đời sau cầu Phật-đạo nên học như thế!

Bấy giờ đức Thế-Tôn nói bài kệ rằng:

Bồ-tát Trí-Quang ông nghe kỹ!
Đại-sĩ xuất-gia nên bỏ tham;
Phát tâm tu-hành đạo xuất-thế,
Khất-thực Đầu-đà là căn-bản.
Phàm-phu nương món ăn hữu-lậu,
Bậc Thánh-y món ăn vô lậu:
Hữu-lậu, vô-lậu các phàm, Thánh,
Hết thảy đều y món ăn, sống.
Tôi vì các ông là Phật-tử,
Khai-diễn hai lợi-hạnh [19] xuất-thế;
Như-Lai ba đời đều khen-ngợi,
Công-đức khất-thực có mười lợi:
Riêng gọi hạnh này là tối-thắng,
Xuất nhập tự-tại không ràng-buộc;
Trước khiến thí-chủ phát sơ-tâm,
Xu-hướng Bồ-đề, sau mới ăn.
Vì trừ sẻn tham nói diệu-pháp,
Rảo tới đại-xả vô-lượng-tâm;
Theo đại-sư dạy đi khất-thực,
Tăng-trưởng vô-lượng các phạm-hạnh.
Bảy mạn, chín mạn tự trừ diệt,
Được các Nhân, Thiên thường cung-kính;
Đỉnh-tướng Như-Lai không thấy được,
Quay xe diệu-pháp hóa mười phương.
Hết thuở vị-lai truyền pháp này,
Khiến không đoạn-tuyệt Tam-bảo-chủng;
Nếu vì ăn uống khởi tâm tham,
Không nên khen-ngợi các nam, nữ.
Khởi ý bình-đẳng đại-từ-bi,
Không sinh phân-biệt giàu, nghèo khó.
Thanh-tịnh khất-thực Phật khen-ngợi,
Nhất-thiết chủng-trí từ đấy sinh.
Như-Lai ba đời hiện ra đời,
Vì chúng-sinh nói bốn món ăn: [20] 
Đoạn, xúc, tư, thức là bốn món,
Là món ăn hữu-lậu của đời.
Chỉ có Pháp-hỷ, Thiền-duyệt-thực, [21] 
Mới là món ăn của Hiền-Thánh.
Các ông chán bỏ mùi đời này,
Nên cầu món ăn vô-lậu hơn! [22] 

Lại nữa, Bồ-tát Trí-Quang! Phật-tử xuất-gia đối với thuốc men không nên tham-đắm. Nếu khi có bệnh, thứ thuốc người ta sắc rồi bỏ đi, như vị Ha-lê (Haritaki) Tỳ-lê và A-ma-lặc (Àmalaka) thời nên lấy những thứ thuốc ấy mà uống; cho đến một đời chỉ uống những thứ thuốc bỏ đi ấy mà thôi. Và, đối với những thứ thuốc ấy vẫn thường sinh niệm “tri-túc” (biết đủ), như thế gọi là “chân-thực Sa-môn”.

Phật-tử xuất-gia thường uống thuốc bỏ đi, người ấy thu được mười thắng-lợi. Những gì là mười? Một là, vì cầu thuốc thang nhưng, không phải gần luôn với người khác, thời tắt hẳn được tâm tham-cầu và an-trụ được trong chính-niệm. Hai là, “bất-tịnh quán-môn” [23] được thành-tựu dễ-dàng, tâm xuất-thế được vững-vàng. Ba là, đối với các trân-vị, thường không sinh tâm tham-đắm, chóng chứng được chính-trí, hưởng mùi Thiền-duyệt. Bốn là, đối với hết thảy tài-vật thế-gian, thường biết “tri-túc”, chóng được giải-thoát. Năm là, không phải gần những phàm-phu thế-gian mà thường thân-cận với những bạn lành thanh-tịnh xuất-thế-gian. Sáu là, vì không hiềm ghét các thứ thuốc bỏ đi, thời đối với các thức ăn uống không tốt cũng được giải-thoát. Bảy là, đối với những thứ thuốc quý, quyết không hy-vọng, được hết thảy thế-gian tôn-trọng. Tám là, chóng điều-phục được các bệnh phiền-não, chứng được pháp-thân thường-trụ của Như-Lai. Chín là, dứt hẳn hết thảy phiền-não trong ba cõi, chữa khỏi những bệnh nặng về thân-tâm chúng-sinh. Mười là, thuận lời Phật dạy tu hạnh Bồ-tát, phúc-trí viên-mãn, được Đại-bồ-đề.

Trí-Quang nên biết! Tôi vì các ông nói qua về mười thắng-lợi của sự uống thuốc bỏ đi, diệu-hạnh như thế, Bồ-tát xuất-gia trong quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đều cùng tu-học. Các ông cần nên vì các chúng-sinh mà diễn-thuyết, lưu-bố phương-pháp này đừng để đoạn-tuyệt, tức là vì Như-Lai đặt rộng sự cúng-dàng; dù thế-gian có của đem cung-kính cúng-dàng cũng không bằng được. Và, đối với hạnh Bồ-tát lại không bị thoái-chuyển, chóng chứng đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, đức Thế-Tôn nói lại nghĩa trên bằng lời kệ sau này:

Tỷ-khưu Trí-Quang ông nghe khéo!
Người xuất-gia uống thuốc vô-cấu;
Diệu-hạnh Bồ-tát, đó là trước,
Chúng-sinh có bệnh như mình bệnh.
Lấy ơn đại-bi cứu mọi khổ,
Lại dùng từ-tâm cho an-lạc;
Thuốc hay tối-thượng cho người ta,
Người trước bỏ đi, mình lấy uống.
Bồ-tát không kén thuốc tốt, xấu,
Chỉ chữa các bệnh cho an-ổn;
Lấy thứ thuốc thừa người ta bỏ,
Uống thuốc lấy đủ trị khỏi bệnh.
Lấy thuốc người bỏ có mười lợi,
Như-Lai ba đời cùng khen-ngợi:
Tuy cầu thuốc men không gần người,
Tắt hẳn cầu cạnh, nương chính-niệm
Quán-môn “bất-tịnh” dễ thành-thục,
Gây nhân Bồ-đề đời xa sau;
Không ham cam-vị bỏ mọi tham,
Nên cầu Pháp-hỷ, Thiền-duyệt-thực.
Của báu ở đời tri-túc được, 
Thu được thất Thánh-tài [24] vô-lậu;
Bỏ kẻ phàm-phu, không ở chung,
Thân-cận Thánh-Hiền làm lương-hữu.
Bởi thế không hiềm các thuốc bỏ,
Với đồ ẩm-thực, dứt tham-cầu;
Cỗ quý, thuốc hay không hy-vọng,
Thế-gian bởi thế đều tôn-trọng.
Hay chữa thân tâm-bệnh phiền-não,
Ngộ được Chân-như pháp-tính-nhân;
Dứt hẳn tập-khí trong ba cõi,
Chứng được vô-thượng chân-giải-thoát.
Thuận lời Phật dạy hướng Bồ-đề,
Phúc-trí viên-thành thân quả-báo.
Phật-tử các ông đều tu học,
Sẽ ngồi nơi Kim cương đạo-tràng. [25] 

Lại nữa, Trí-Quang! Bồ-tát xuất-gia xa lìa chỗ huyên-náo, ở nơi A-lan-nhã, [26] tu-nhiếp tâm mình trong vô-lượng nghìn năm để cầu Phật-đạo. Như-Lai trong ba đời bỏ những nơi huyên-náo, ở những nơi không-nhàn vẳng-lặng, tu thêm muôn hạnh, chứng quả Bồ-đề. Bậc Duyên-giác, bậc Thanh-văn hết thảy Hiền-Thánh chứng được Thánh-quả cũng đều ở nơi tịch-tĩnh như thế. Nơi A-lan-nhã có mười thắng-đức, làm cho người tu, chứng được ba quả Bồ-đề. [27] Những gì là mười thắng-đức? Một là, vì được tự-tại, ở nơi A-lan-nhã, trong bốn uy-nghi không bị hệ-thuộc người khác. Hai là, bỏ “ngã, ngã-sở” nên gọi là A-lan-nhã, vì vậy khi ở dưới gốc cây không còn sự chấp-trước. Ba là, đối với những đồ ngồi nằm không ham-đắm, do đó nên được nằm trên giường “tứ vô-úy”. [28] Bốn là, nơi A-lan-nhã, ba độc ít-ỏi, nên bỏ được cảnh sở-duyên của tham, sân, si. Năm là, thích ở nơi A-lan-nhã tu hạnh viễn-ly, không cầu năm thứ dục-lạc của Nhân, Thiên. Sáu là, bỏ nơi huyên-náo ở nơi nhàn-tịch, tu-tập Phật-đạo không tiếc thân-mệnh. Bảy là, ưa thích nơi tịch-tĩnh, hết thảy sự-nghiệp thế-gian được thành-tựu dễ-dàng, không chướng-ngại. Tám là, hết thảy sự-nghiệp của thế-gian hay xuất-thế-gian đều được thành-tựu dễ-dàng, không chướng-ngại. Chín là, nơi A-lan-nhã là “Tam-muội-không” [29] hay chứng được trăm nghìn thứ đại-tam-muội. Mười là, lấy “thanh-tịnh như-không” làm nhà cửa, [30] tâm không chướng-ngại, được đại-trí-tuệ.

Trí-Quang nên biết! Nơi A-lan-nhã có vô-lượng công-đức như thế! Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử xuất-gia thề bỏ thân-mệnh, không bỏ rừng núi; nếu vì nghe pháp hay cúng-dàng người đau, sư-tăng, cha mẹ, phải ra ngoài nơi A-lan-nhã vào trong làng xóm thời nên chóng trở về nơi A-lan-nhã. Nếu có nhân-duyên chưa về được, nên tưởng: “Nay ở nơi làng xóm này cũng như ở chốn núi rừng, tài vật sở đắc giả-dối như chiêm-bao, và nếu có được, không nên tham-trước!” Phật-tử như thế là “Ma-ha-tát”. [31] 

Bấy giờ, đức Thế-Tôn nói bài kệ rằng:

Trí-Quang các ông nghe cho kỹ!
Nơi ở của người không phiền-não:
Xa nơi huyên-náo ở nơi tĩnh,
Đó là những nơi thần-tiên ở.
Bồ-tát ba đời cầu Bồ-đề,
Ở trong Lan-nhã thành chính-giác;
Duyên-giác, Thanh-văn các Thánh-chúng,
Cũng ở nơi này chứng Bồ-đề.
Ở A-lan-nhã được mười lợi,
Hay khiến chứng được quả Tam-thừa:
Du-hành tự-tại như sư-tử,
Trong bốn uy-nghi không ràng-buộc.
Dưới cây rừng núi bậc Thánh ham,
Không “ngã, ngã-sở” là Lan-nhã;
Áo mặc đồ nằm không ràng-buộc,
Ngồi tòa sư-tử “tứ-vô-úy”.
Bỏ các phiền-não là Lan-nhã,
Hết thảy tham-ái không ham-đắm.
Ở ngoài sự-vật chán trần-lao,
Không ham năm dục-lạc trên đời.
Người xa huyên-náo, ưa tịch-tĩnh,
Bỏ thân, xả mệnh cầu Phật-đạo;
Ở nơi tịch-tĩnh không tiếng người,
Tán-loạn trong tâm không phát-khởi.
Nghiệp thiện thế-gian, xuất-thế-gian,
Tâm không chướng-ngại đều thành-tựu.
Bởi thế, Lan-nhã là căn-bản,
Hay sinh trăm nghìn thứ Tam-muội.
Lấy “đại-không-tịch” làm hư-không,
Thân-tâm người tu không chướng-ngại.
Đầy-đủ được mười thắng-lợi ấy,
Thế nên các Thánh thường ở đó.
Trí-Quang các ông, các Phật-tử,
Nếu muốn chóng thành Nhất-thiết-trí;
Cho đến trong mộng không bỏ rời,
Nơi A-lan-nhã: Bồ-đề-đạo.
Sau Tôi diệt-độ, người phát tâm,
Thường hay ở nơi A-lan-nhã;
Không lâu ngồi trên Bảo-hoa-vương,
Chứng được pháp-thân thường-lạc-quả. [32] 

Khi đức Thế-Tôn nói pháp ấy, vô-lượng trăm nghìn vị Sơ-phát-tâm đối với đạo vô-thượng được Bất-thoái-chuyển. Bọn ông Trí-Quang, các Bồ-tát-chúng được Đà-ra-ni, đầy-đủ đại-thần-thông. Trăm vạn Nhân, Thiên phát tâm Bồ-đề, ngộ ba pháp-môn giải-thoát.

Lúc đó, Như-Lai bảo đại-chúng rằng: “Nếu có tịnh-tín thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào được nghe pháp-môn sâu xa về bốn “vô-cấu-tính” như thế, thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, biên chép, những người ấy ở nơi sinh của họ, họ sẽ gặp được bậc thiện-tri-thức, tu hạnh Bồ-tát mãi mãi không bị thoái-chuyển, không bị hết thảy các nghiệp phiền-não nhiễu-loạn; trong đời hiện-tại được phúc-trí lớn, trụ-trì Tam-bảo, được sức tự-tại, nối tiếp Phật-chủng không đoạn-tuyệt. Và, khi mệnh mất quyết được sinh lên cung trời Tri-túc, yết-kiến Ngài Di-Lặc, chứng ngôi Bất-thoái; trong hội đầu Long-Hoa được nghe chính-pháp, thụ Bồ-đề-ký, chóng thành Phật-đạo; nếu nguyện muốn sinh sang cõi nước chư Phật trong mười phương, thời tùy sở-nguyện mình mà được vãng-sinh, được thấy Phật, nghe pháp, cứu-cánh bất-thoái vô-thượng chính-đẳng chính-giác.” [33] 

TOÁT-YẾU
IV.- PHẨM VÔ-CẤU-TÍNH

Các ông Trưởng-giả được xuất-gia rồi, liền xin Phật nói cho nghe về công-đức thù-thắng của sự xuất-gia: Bồ-tát xuất-gia nên an-trụ thế nào? Nên tu-tập nghiệp vô-cấu thế nào? Nên điều-phục tâm hữu-lậu thế nào?

Đức Phật dạy:“Bồ-tát xuất-gia ngày đêm cần quán-tưởng: Thân ta có đây do đâu mất đi mà sinh ra? Sau đây ta sẽ sinh vào châu nào, đạo nào? Tại sao ta xuất-gia được? Chư Phật quá-khứ đã qua, chư Phật vị-lai chưa ra đời, hiện tại còn bao nhiêu đức Phật sẽ ra đời? Bao giờ đức Di-Lặc ra đời? Thân ta có nghiệp thiện gì? Học giới, định, tuệ, có đức gì? Sau đây liệu có gặp được Phật không? Ba nghiệp trong thân này gì là nặng hơn? Ta đã tạo tội gì? Ta đã trồng thiện-căn ở nơi đức Phật nào? Thân ta được bao lâu nữa? Mất đi sẽ sinh vào đâu? Ta sao khỏi được ba đường dữ? Thân này luôn luôn suy-giảm, ta yêu-thích làm gì?

Bồ-tát không ham năm dục, siêng-năng tu-tập, quán-tưởng không ngừng, coi như gỡ lửa cháy trên đầu. Và, tâm thường sám-hối, trụ vào 4 vô-cấu-tính, tu 12 hạnh Đầu-đà cùng điều-phục tâm mình.

Bốn vô-cấu-tính là bốn thứ tùy chỗ có được thế nào nên thế, không tham-cầu. Và, do 4 thứ ấy sinh ra 37 Bồ-đề-phận của chư Phật; ngôi Tam-bảo không bị đoạn-tuyệt. Bốn vô-cấu-tính ấy là: quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men.

- Bồ-tát xuất-gia đối với quần-áo, đồ nằm dù xấu, tốt không chê, khen, chỉ nhất tâm hồi-hướng công-đức cho thí-chủ và luôn luôn mang lòng thẹn-hổ, sung-túc cho pháp-y được 10 thắng-lợi: xa lìa tu-sỉ, xa lìa lạnh, nóng…,hiện tướng xuất-gia, được sự tôn-kính, diệt tội sinh phúc, không sinh tham-ái, tạo ruộng phúc tốt, thiện-nghiệp tăng-trưởng, tăng-trưởng Bồ-tát-đạo và phiền-não không hại.

- Bồ-tát xuất-gia thường làm hạnh khất-thực, dù xả thân-mệnh chứ không bỏ. Khất-thực có 10 thắng-lợi: Sống mình bằng tự-do, nói pháp cho người, khởi tâm xả-thí, tăng-trưởng phúc-trí, tiêu-diệt khinh-mạn, được vô-kiến đỉnh-tướng, Tam-bảo thường-trụ, không khởi hy-vọng khen chê, tâm không phân-biệt và được Nhất-thiết-trí.

- Bồ-tát xuất-gia đối với thuốc men không ham-đắm. Khi có bệnh chỉ uống thứ thuốc bỏ đi của người mà vẫn sinh niệm tri-túc. Uống thuốc bỏ đi được 10 thắng-lợi: Được uống thuốc nhưng không gần người, thành bất-tịnh-quán, không sinh tham-đắm, biết tri-túc được giải-thoát, được gần bạn lành, không tâm hiềm-ghét, không tâm hy-vọng, điều-phục được bệnh phiền-não, dứt hẳn phiền-não và được Đại-bồ-đề.

- Bồ-tát xuất-gia xa-lìa chỗ huyên-náo ở nơi A-lan-nhã, thu-nhiếp thân-tâm, để cầu Phật-đạo. Chư Phật, Hiền-thánh trong ba đời đều ở nơi A-lan-nhã mà thành Bồ-đề. Ở nơi A-lan-nhã có 10 thắng-đức: Không bị hệ-thuộc, bỏ “ngã, ngã-sở”, được 4 vô-úy, bỏ tham, sân,si, không cầu năm dục, không tiếc thân-mệnh, sự-nghiệp thế-gian dễ thành, sự-nghiệp xuất-thế dễ thành, chứng nhiều đại-định và được đại-trí-tuệ.

Đức Phật nói về vô-cấu-tính rồi, nhiều người phát tâm vô-thượng bất-thoái-chuyển; các Bồ-tát cùng bọn ông Trí-Quang được Đà-ra-ni thần-thông và nhiều Nhân, Thiên phát tâm Bồ-đề được 3 pháp giải-thoát.

Đức Phật kết-khuyến: “Nếu ai được nghe, thụ-trì, đọc tụng, giải-thuyết, biên chép phẩm Vô-cấu-tính này hiện-thế được nhiều lợi-lạc, sau này được gặp đức Di-Lặc, được thụ-ký và sẽ thành Phật.
 
 
 
 

 [1] Vô-cấu-tính: Đối với 4 thứ: quần áo, đồ nằm, thức ăn uống, thuốc men, tuy phải dùng nhưng, không tham-cầu, không làm nhiễm-ô chân-tính là “vô-cấu-tính”.

 [2] Vô-duyên từ-bi: “Từ-bi” có nghĩa là cho vui, cứu khổ. “Vô-duyên từ-bi” là 1 trong 3 loại từ-bi. Ba loại từ-bi là: 1/ Chúng-sinh-duyên từ-bi: Tâm từ-bi coi tất cả chúng-sinh như cha mẹ, quyến-thuộc. Vì có duyên với họ, nên thường nghĩ tới sự cho vui, cứu-khổ họ. Tâm từ-bi này phần nhiều do tại nơi phàm-phu hoặc những người hữu học, chưa dứt được phiền-não mà phát-khởi. 2/ Pháp-duyên từ-bi: Bậc Thánh-nhân trong Tam-thừa đã dứt được phiền-não, đạt tới pháp-không (sự-vật là không), phá được tướng “ngã” nơi ta, cùng phá và diệt được tướng nhất (một), dị (khác), chỉ thương chúng-sinh không biết là “pháp-không”, nhất tâm muốn gỡ khổ, được vui, nên tùy theo ý họ mà gỡ khổ, cho vui cho họ. 3/ Vô-duyên từ-bi: Tâm từ-bi này chỉ có nơi Phật. Tâm chư Phật không trụ vào trong tính hữu-vi vô-vi, không trụ vào trong ba đời: quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, biết rõ mọi duyên là không thực, điên-đảo hư-vọng, nên tâm không bị duyên vào đó. Song, chư Phật vì thấy chúng-sinh không biết thực-tướng của các pháp, phải đi lại trong năm đường, tâm chấp-trước vào các pháp, lấy, bỏ, phân-biệt, vì vậy nên tâm không duyên với chúng-sinh, nhưng, vẫn làm cho hết thảy chúng-sinh tự-nhiên được sự lợi-ích trong sự cho vui, cứu khổ.

 [3] La-hầu-la (Rahula): Tàu dịch là “Phú-chướng”. Là con trai của Thái-Tử Tất-đạt-đa (tức là đức Phật). Theo Phật xuất-gia, là vị Mật-hạnh đệ nhất.

 [4] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chữ “nào”, các ông Trưởng-giả xin Phật dạy cho về cách an-trụ, tu-tập, điều-phục tâm như thế nào?

 [5] Mười hai hạnh Đầu-đà: “Đầu-đà” (Dhùta): Tàu dịch là “Đẩu-tẩu” có nghĩa là vị thực-hành phương-pháp giũ bỏ, nghĩa là không tham-trước về 3 món: quần áo, ăn uống và nơi ở. Thực-hành hạnh này cần giữ 12 điều: 1/ Mặc áo đụp. 2/ Chỉ có 3 áo. 3/ Đi khất-thực. 4/ Không ăn nhiều bữa. 5/ Ăn một bữa đúng trưa. 6/ Ăn có hạn. 7/ Ở nơi A-lan-nhã. 8/ Ngồi nơi mộ-địa. 9/ Ngồi dưới gốc cây. 10/ Ngồi nơi đất trống. 11/ Ngồi nơi đất cỏ. 12/ Thường ngồi không nằm.

 [6] Chiên-đà-la (Candàla): Tức là người đồ-tể. Xưa kia, tại Ấn-độ hạng người này là người ngoài 4 giai-cấp trong xã-hội. Hạng người này đi ra đường phải cầm cờ, lắc chuông v.v…để người ta biết để tránh.

 [7] Ca-sa (Kasàya): Có nghĩa là áo nhuộm hoại-sắc, không để chính-sắc. Ca-sa là áo của các vị Tỷ-khưu. Ca-sa có ba bậc: 1/ An-đà-hội (Antarvàsaka) 5 điều. 2/ Uất-đa-la-tăng (Uttaràsanga) 7 điều. 3/ Tăng-già-lê (Sanghàti) 9 điều đến 25 điều.

 [8] 37 Bồ-đề-phận-pháp: Tức 37 đạo-phẩm: 4 niệm xứ, 4 chính-cần, 4 như-ý-túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác-chi và 8 chính-đạo. (Xem trong quyển Bước đầu học Phật có giải rõ)

 [9] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “Vô-cấu-tính”, đức Phật dạy về cách an-trụ, tu-hành và điều-phục của Bồ-tát xuất-gia. Bồ-tát xuất-gia luôn luôn quán nhân-quả 3 đời tại nơi mình, cần tu hạnh Đầu-đà, điều-phục tâm mình như bọn Chiên-đà-la và không tham-cầu về 4 sự thường dùng: quần áo, đồ nằm, ăn uống, thuốc-thang. Do đó, phát sinh đạo-phẩm và Tam-bảo thường-trụ. 

 [10] Thai, noãn, thấp, hóa: Tức là 4 loại sinh: 1/ Thai-sinh (Jaràyuja): loài do thai-nghén rồi sinh con. 2/ Noãn-sinh (Andaja): Loài sinh trứng. 3/ Thấp-sinh (Samsvedaja): Loài nương nơi ẩm-thấp mà sinh. 4/ Hóa-sinh (Upapàduka): Loài y vào nghiệp-lực mà hóa-sinh.

 [11] Ba tính: Thiện, ác và vô-ký (không thiện không ác).

 [12] Hoa-vương: Tức là tòa Kim-cương hoa-quang-vương. “Hoa-vương”: bông hoa cao quý, rộng khắp biểu-tượng cho pháp-giới vô-lượng. Pháp-giới vô-lượng ví như hoa sen nghìn cánh, mỗi cánh là trăm ức cõi và mỗi cõi có một đức Phật thuyết-pháp độ-sinh. Theo ý nghĩa trên, thời trong câu “Hoa-vương” này có nghĩa là chư Phật thành Phật (chứng được pháp-thân), sẽ đem lại phúc-lợi cho tất cả chúng-sinh trong pháp-giới không phân-biệt.

 [13] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy” đến chỗ “Như-Lai”, đức Phật nhắc lại ý-nghĩa đã nói trong chính-văn về việc an-trụ, tu-hành điều-phục, để gây mầm Bồ-đề, thành tựu vô-lậu thánh-đạo và làm lợi-lạc cho quần-sinh.

 [14] Pháp-y: Áo đúng pháp, không tham-cầu, không thừa-thãi

 [15] Năm tà-kiến: 1/ Thân-kiến: chấp ta và của ta. 2/ Biên-kiến: chấp một bên, hoặc là “đoạn” hay là “thường”. 3/ Tà-kiến: không tin nhân, quả. 4/ Kiến-thủ: chấp chặt tri-kiến mình là hơn. 5/ Giới-cấm-thủ: chấp giữ những giới-cấm phi-lý.

 [16] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chữ “chóng”, đức Phật nói rõ sự cần-thiết và lợi-ích của y-phục. Việc y-phục, người biết tri-túc, không tham-cầu, thời sẽ là ruộng phúc cho thí-chủ, mầm đạo Bồ-đề sẽ tươi tốt như lúa về mùa Xuân, sẽ hưởng được quả tốt như quả chín mòm trong mùa Thu; không bị sợ-hãi trong các tai-nạn và chóng thành vô-thượng-giác.

 [17] 7 mạn, 9 mạn: “Mạn” có nghĩa là cậy mình khinh người:

7 mạn: 1/ Mạn: kém mà cho mình hơn. 2/ Quá-mạn: bằng mà cho mình hơn. 3/ Mạn-quá-mạn: người hơn mà cho mình hơn. 4/ Ngã-mạn: chấp ta, của ta sinh ngông-nghênh. 5/ Tăng-thượng-mạn: chưa chứng Thánh-quả cho mình đã chứng. 6/ Ty-mạn: người hơn mình nhiều phần lại cho mình là kém ít phần. 7/ Tà-mạn: làm ác được kết-quả sinh ngông-nghênh.

9 mạn: 1/ Ngã-thắng-mạn: bằng, lại cho ta là hơn. 2/ Ngã-đẳng-mạn: hơn, lại nghĩ ta bằng. 3/ Ngã-liệt-mạn: người hơn nhiều, cho ta là kém ít. 4/ Hữu-thắng ngã-mạn: nghĩ người so-sánh với mình là hơn. 5/ Hữu-đẳng ngã-mạn: nghĩ người cùng mình bằng. 6/ Hữu-liệt-ngã: nghĩ người kém mình. 7/ Vô-thắng-ngã: nghĩ người đối với mình không hơn. 8/ Vô-đẳng-ngã: nghĩ người đối với mình không bằng. 9/ Vô-liệt-ngã: nghĩ người đối với mình không kém.

 [18] Vô-kiến-đỉnh: Tức là tướng Nhục-kế của Phật. Tướng này ở trên đỉnh đầu Phật, hết thảy Nhân, Thiên không trông thấy được, nên gọi là “vô-kiến-đỉnh”.

 [19] Hai lợi-hạnh: Lợi mình và lợi người.

 [20] Bốn món ăn: 1/ Đoạn-thực: xưa gọi là “đoàn-thực”: Những đồ ăn phải chia ra từng phần, từng nắm, từng miếng mà ăn. 2/ Xúc-thực: xưa gọi là “lạc-thực”: xúc-chạm những việc vui mừng, thân-thể lớn khỏe, không ăn cũng không biết đói. 3/ Tư-thực: xưa gọi là “niệm-thực”: Ý-thức thứ 6 nghĩ (tư) đến cảnh mong muốn, sinh ra niệm hy-vọng, mà giúp-đỡ các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) sinh-trưởng. 4/ Thức-thực: 8 thức hay chống-chõi và gìn-giữ cho thân-mệnh chúng-sinh, nên gọi là “thức-thực”. Bốn món trên đều chống-chõi, gìn-giữ và nuôi lớn thân-mệnh chúng-sinh, nên gọi là “thực” (món ăn).

 [21] Pháp-hỷ, Thiền-duyệt-thực: Nghe pháp vui mừng căn lành thêm lớn, giúp ích cho thân-mệnh trí-tuệ, cũng như những món ăn của thế-gian giúp cho thân-thể, nên gọi là “Pháp-hỷ-thực”. Lấy sự vui vẳng-lặng trong thiền-định nuôi-nấng thân-tâm, nên gọi là “Thiền-duyệt-thực”.

 [22] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” cho đến chỗ “vô-lậu hơn”, đức Phật dạy về việc khất-thực. Khất-thực có nhiều lợi-ích cho mình và lợi-ích cho người. Người khất-thực phải có tâm bình-đẳng, ăn đủ sống, không tham-cầu và biết rằng 4 món ăn của thế-gian còn là món ăn hữu-lậu (còn phải sinh-tử, chưa giải-thoát), chỉ có món ăn: Pháp-hỷ, Thiền-duyệt là món ăn của Hiền-thánh, là món ăn vô-lậu (được giải-thoát, không còn sinh-tử).

 [23] Bất-tịnh quán-môn: Môn quán về thân không trong-sạch.

 [24] Thất Thánh-tài: 7 thứ của của Hiền-thánh: 1/ Tín: tín-thụ chính-pháp. 2/ Tiến: tinh-tiến cầu đạo. 3/ Giới: giữ-gìn giới-luật. 4/ Tàm-quí: biết thẹn-hổ nơi mình và người. 5/ Văn: tin nghe chính-giáo. 6/ Xả: vui bỏ hết thảy. 7/ Định-tuệ: lắng trong vọng-niệm, soi tỏ sự lý.

 [25] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “đạo-tràng”, đức Phật dạy các Phật-tử xuất-gia khi có bệnh nên uống thứ thuốc của người đã sắc bỏ đi, Uống thứ thuốc này tức là không còn có sự khen, chê, tham-cầu, để dễ quán bất-tịnh, diệt phiền-não và phúc-trí chóng viên-thành.

 [26] A-lan-nhã: (Àrinya): Nơi núi rừng thanh-vắng mà các vị tu-hành ở, Tàu dịch là: “Vô-tránh-thanh”: nơi xa vắng không còn có tiếng cãi-cọ; “Nhàn-tịch”: nơi vẳng-lặng, thong-thả; “Không-nhàn”: nơi trống-trải, rộng-rãi bao-la, không huyên-náo, được tự-tại; “Viễn-ly-xứ”: nơi xa tránh sự xôn-rộn của đời.

 [27] Ba quả Bồ-đề: Tức là 3 chính quả của Thanh-văn, Duyên-giác và Phật.

 [28] Tứ vô-úy: Bốn pháp nói về tâm hóa-tha không sợ. Vô-ú có 2 thứ: vô-úy của Bồ-tát và vô-úy của Phật.

A.- Vô-úy của Phật: 1/ Nhất-thiết-trí vô-sở-úy: nói được nhất-thiết-trí tâm không sợ-hãi. 2/ Lậu-tận vô-sở-úy: nói dứt hết mọi phiền-não, tâm không sợ-hãi. 3/ Thuyết-chướng-đạo vô-sở-úy: nói ra pháp chướng-hại đạo Phật, tâm không sợ-hãi. 4/ Thuyết-tận-khổ-đạo vô-sở-úy: nói rằng hết khổ-đạo, tâm không sợ-hãi.

B.- Vô-úy của Bồ-tát: 1/ Nghe giữ và ghi nhớ giáo-pháp không quên nên thuyết-pháp không sợ. 2/ Biết pháp-dược và biết căn-tính chúng-sinh nên thuyết-pháp không sợ. 3/ Khéo hay về sự vấn-đáp nên thuyết-pháp không sợ. 4/ Hay ngắt dứt nỗi ngờ của chúng-sinh nên thuyết-pháp không sợ.

 [29] Tam-muội không: Ý nói nơi A-lan-nhã là nơi tu định, nơi này cũng ví như hư-không hàm-tàng muôn vật, muôn vật đều hàm-tàng trong hư-không, như mọi môn định đều tự nơi A-lan-nhã mà sinh-trưởng.

 [30] Ý nói: Ở nơi A-lan-nhã tâm trong sạch, rộng-rãi như hư-không.

 [31] Ma-ha-tát: Gọi đủ là Ma-ha-tát-đỏa (Mahàsatt-va), Tàu dịch là “Đại tâm, Đại chúng-sinh, Đại hữu-tình”; có nghĩa là chúng-sinh có tâm rộng lớn, làm những việc lớn-lao. Ma-ha-tát là tiếng gọi thông-thường chỉ cho vị Bồ-tát.

 [32] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa” đến chỗ “thường lạc-quả” đức Phật dạy: Bồ-tát xuất-gia cần phải ở nơi thanh-vắng, tránh xa sự huyên-náo, tu-tập muôn hạnh, để chứng Bồ-đề. Nơi ấy có 10 thắng-đức nên chư Phật và Tam-thừa. Thánh-nhân đều do nơi ấy mà thành đạo. Người phát tâm ở nơi A-lan-nhã, quyết sẽ chứng pháp-thân.

 [33] Đoạn trên, từ chỗ “Khi đức Thế-Tôn” đến chỗ “chính-giác” là nói về sự nghe pháp cũng như sự thụ-trì pháp-môn này, hiện nay và mai sau được nhiều sự lợi-ích.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11928)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12901)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52697)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21215)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10588)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19096)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15959)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18816)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12101)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17019)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14938)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12892)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14476)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11413)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant