KINH ĐẠI-THỪA
BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN
Đường,
Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
X.- PHẨM
QUÁN TÂM
Bấy
giờ, Đại-bồ-tát: Văn-Thù Sư-Lỵ liền từ tòa đứng dậy
chỉnh y-phục, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất,
khom mình chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn!
Như Phật đã nói cho bọn ông Trưởng-giả Diệu-Đức năm
trăm người rằng: “Tôi vì các ông diễn bày pháp-môn tâm-địa
vi-diệu”. Nay vô-lượng vô-biên đại-chúng Nhân, Thiên trong
đạo-tràng nay đều sinh tâm khát-ngưỡng, tôi vì tất cả
những người ấy xin khải-vấn Như-Lai: Thế nào là “tâm”?
Thế nào là “địa”? Kính xin đức Thế-Tôn đem tâm vô-duyên
đại-từ, vô-ngại đại-bi, vì các chúng-sinh phân-biệt diễn
nói cho những người chưa khỏi khổ, được khỏi khổ, những
người chưa an-vui, được an-vui, những người chưa phát tâm,
được phát tâm, những người chưa chứng quả, được chứng
quả, đồng nơi Nhất-đạo mà được Niết-bàn”. [1]
Khi
ấy, đức Thế-Tôn đem đại-diệu-trí-ấn [2] thanh-tịnh
quyết-định thắng-nghĩa mà Ngài đã được trong sự tu các
phúc-đức, trí-tuệ ở vô-lượng kiếp, ấn-khả cho Bồ-tát
Văn-thù sư-lỵ và nói rằng: “Quý hóa thay! Quý hóa thay!
Nay ông thực là Phật-mẫu trong ba đời! Hết thảy Như-Lai
ở nơi tu-hành, ông đều từng dẫn-đạo các Ngài khi mới
phát tín tâm; bởi nhân-duyên ấy, các bậc thành chính-giác
trong mười phương quốc-độ, đều lấy Văn-thù làm mẹ.
Song, nay thân ông bởi nguyện-lực xưa mà hiện ra hình-tướng
Bồ-tát, thỉnh-vấn Như-Lai về pháp cao siêu không thể nghĩ,
bàn được. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ nghĩ khéo! Tôi vì
khắp tất cả mà phân-biệt, giải-thuyết về vấn-đề ấy!”
Bồ-tát Văn-thù bạch: “Dạ, bạch Thế-Tôn! Chúng tôi thích
được nghe!” [3]
Lúc
đó, đức Thế-Tôn thành-tựu tốt đẹp “tối thắng trụ-trì
bình-đẳng-tính-trí” của hết thảy Như-Lai cùng mọi thứ
công-đức vi-diệu hiếm có; Ngài đã khéo thu-hoạch được
“quyết-định thắng-pháp Đại-thừa trí-ấn” của hết
thảy chư Phật; Ngài đã khéo viên-chứng được “Kim-cương
bí-mật thù-thắng diệu-trí” của hết thảy Như-Lai; Ngài
đã khéo an-trụ nơi “vô-ngại đại-bi”, tự-nhiên cứu-nhiếp
chúng-sinh trong mười phương; Ngài đã khéo viên-mãn “diệu-quán-sát-trí”,
không quán mà như quán, không nói mà như nói. [4]
Khi
ấy, đức Thế-Tôn bảo Vô-cấu đại-thánh Văn-thù sư-lỵ
Đại-bồ-tát là từ-mẫu của chư Phật rằng: “Đại-thiện-nam-tử!
Pháp ấy là “tối thắng bí-mật tâm-địa pháp-môn” [5] của Như-Lai trong mười phương. Pháp ấy là pháp-môn “đốn-ngộ”
[6] của hết thảy phàm-phu vào Như-Lai-địa. Pháp ấy
là “đường chính chân-thực” của hết thảy Bồ-tát đi
tới đại-bồ-đề. Pháp ấy là “bảo cung (cung báu) vi-diệu”
của chư Phật trong ba đời, tự hưởng-thụ pháp-lạc. Pháp
ấy là “bảo-tạng (kho báu) vô-tận” trong hết thảy sự
lợi-ích chúng-sinh. Pháp ấy hay dẫn các Bồ-tát-chúng đến
nơi “Sắc-cứu-cánh tự-tại-trí”. [7] Pháp ấy là
chân-thực đạo-sư, hay dẫn hậu-thân Bồ-tát [8] tới
cây Bồ-đề. Pháp ấy như ngọc Ma-ni, hóa những của cải
cho thế-gian, xuất thế-gian làm cho chúng-sinh mãn-nguyện. Pháp
ấy sinh ra nguồn-gốc công-đức của hết thảy chư Phật
trong mười phương ba đời. Pháp ấy hay làm tiêu-tan các nghiệp-quả
ác của hết thảy chúng-sinh. Pháp ấy hay cho hết thảy chúng-sinh
sự ấn-chứng về việc nguyện cầu. Pháp ấy hay độ hết
thảy chúng-sinh bị sinh-tử hiểm-nạn. Pháp ấy hay ngừng
sóng cồn bể khổ cho hết thảy chúng-sinh. Pháp ấy hay cứu
chúng-sinh khổ não trong hết thảy cấp-nạn. Pháp ấy hay làm
khô-kiệt bể lão, bệnh, tử cho hết thảy chúng-sinh. Pháp
ấy hay xuất-sinh nhân-duyên chủng-tử của chư Phật. Pháp
ấy là đuốc trí-tuệ lớn soi sáng cho chúng-sinh trong đêm
dài sinh-tử. Pháp ấy là giáp-trụ để phá binh-chúng bốn
ma. Pháp ấy tức là cờ-sí chiến-thắng của đạo quân dũng-mãnh.
Pháp ấy tức là xe pháp vô-thượng của hết thảy chư Phật.
Pháp ấy tức là cờ pháp tối thắng. Pháp ấy tức là đánh
trống đại-pháp. Pháp ấy tức là thổi loa đại-pháp. Pháp
ấy tức là đại-sư-tử-vương. Pháp ấy tức là tiếng gầm
của đại-sư-tử. Pháp ấy cũng như đại-thánh-vương trong
nước khéo làm việc cai-trị chân-chính, nếu thuận vương-hóa
thời được đại-an-lạc, nếu trái vương-hóa liền bị chu-diệt.
[9]
Thiện-nam-tử!
Trong ba cõi lấy “tâm” làm chủ. Người quán được tâm,
được giải-thoát cứu-cánh; người không quán được tâm,
ở mãi trong triền-phược. Ví như muôn vật đều từ đất
sinh, tâm-pháp sinh ra thiện-ác, năm thú (trời, người, ngục,
quỷ, súc), bậc hữu-học, bậc vô-học, bậc Độc-giác, bậc
Bồ-tát, cùng Như-Lai trong thế-gian và xuất-thế-gian. Bởi
nhân-duyên ấy, ba cõi duy tâm, “tâm” là “địa” (đất).
Hết thảy phàm-phu thân-cận bạn lành, nghe pháp tâm-địa,
như lý quán-sát, như nói tu-hành, mình làm, dạy người, khen-ngợi
khuyên gắng, đón mừng, an-ủi, những người như thế, sẽ
dứt được hai chướng, mau trọn muôn hạnh và chóng được
vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [10]
Đến
đây, Đại-thánh Văn-thù-sư-lỵ Bồ-tát bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói: chỉ đem tâm-pháp làm
chủ ba cõi, bản-nguyên tâm-pháp không nhiễm bụi nhơ, tại
sao tâm-pháp lại nhiễm tham, sân, si? Đối với pháp trong ba
đời, gì cho là tâm? Tâm quá-khứ dã diệt, tâm vị-lai chưa
đến, tâm hiện-tại không trụ (ở yên), nội-tính các pháp
tìm không thể được, ngoại-tướng các pháp tìm không thể
được và trung-gian của các pháp đều tìm không thể được;
bản-lai tâm-pháp không có hình-tướng, bản-lai tâm-pháp không
có trụ-xứ, hết thảy Như-Lai còn không thấy tâm, huống
là người khác được thấy tâm-pháp? Hết thảy các pháp
từ vọng-tưởng sinh, bởi nhân-duyên gì, ngày nay Thế-Tôn
vì đại-chúng nói “ba cõi duy tâm”? Vậy, xin Phật thương-xót,
như-thực giải-thuyết cho!” [11]
Bấy
giờ, đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù rằng: “Đúng như thế,
đúng như thế! Thiện-nam-tử! Như ông hỏi Tôi về “bản-tính
không-tịch của tâm, tâm-sở-pháp”, nay Tôi nói các thí-dụ
để chứng-minh nghĩa ấy”.
Thiện-nam-tử!
Tâm như huyễn-pháp, do biến-kế-chấp sinh, nên mọi món tưởng,
thụ (nhận, chịu) vui, khổ, nơi tâm sinh ra. Tâm như dòng nước
chảy, niệm niệm sinh-diệt, đối với đời trước, sau không
tạm dừng. Tâm như gió lớn, trong khoảng sát-na qua mọi phương-sở.
Tâm như đèn lửa, mọi duyên hòa-hợp sinh ra. Tâm như chớp
sáng, chỉ khoảng chốc-lát, chứ không dừng lâu. Tâm như
hư-không, nhưng bị khách-trần phiền-não [12] ngăn-che.
Tâm như con hầu, con vượn, nhảy-nhót trên cây ngũ-dục không
tạm dừng. Tâm như thợ vẽ, vẽ ra mọi hình-sắc thế-gian.
Tâm như kẻ tôi-tớ, bị các phiền-não sai-khiến. Tâm như
người đi một mình, không có người thứ hai. Tâm như quốc-vương,
khởi ra mọi sự, được tự-tại. Tâm như oán-gia, khiến
tự thân chịu khổ-não quá. Tâm như bụi trần, bám nhơ tự
thân, sinh ra tạp-uế. Tâm như ảnh-tượng (bóng dáng), đối
với pháp vô-thường chấp là thường. Tâm như huyễn-mộng,
đối với tướng ngã, pháp chấp làm ta. Tâm như Dạ-xoa, ăn
mất mọi pháp công-đức. Tâm như con nhặng (ruồi) xanh, ham
đồ uế-ác. Tâm như kẻ sát-nhân, hay hại thân-mệnh. Tâm
như kẻ đối-địch, thường rình lầm-lỗi. Tâm như trộm
giặc, trộm mất công-đức. Tâm như trống lớn, khởi sự
chiến-đấu. Tâm như con phi-nga, thích sắc đèn sáng. Tâm như
con hươu đồng, chạy theo tiếng giả. Tâm như đàn lợn, thích
đồ tạp-uế. Tâm như đàn ong, gom-góp mùi mật ngọt. Tâm
như voi say, mê chơi voi cái. [13]
Thiện-nam-tử!
Như thế, nói về tâm, tâm-sở-pháp không trong, không ngoài,
cũng không trung-gian; đối với trong mọi pháp tìm không thể
được, quá-khứ, vị-lai, hiện-tại cũng không thể tìm được,
siêu-việt ba đời, chẳng phải có, chẳng phải không. Chúng-sinh
thường ôm-ấp sự nhiễm-trước, nhiễm-trước từ vọng-duyên
hiện-khởi; duyên không có tự-tính, vì tâm tính không. Như
thế, không-tính không sinh, không diệt, không lại, không đi,
không một, không khác, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường,
vốn không có nơi sinh, cũng không có nơi diệt, cũng chẳng
phải viễn-ly và chẳng phải chẳng viễn-ly. [14]
Những
tâm như thế không khác với vô-vi và thể vô-vi không khác
với những tâm ấy. Thể của tâm-pháp vốn không thể nói
được, thời cái phi-tâm-pháp cũng không thể nói được.
Sao vậy? - Nếu vô-vi là tâm, tức là đoạn-kiến; nếu lìa
tâm-pháp tức là thường-kiến: Lìa hẳn hai tướng, không
chấp-trước hai bên, ngộ được như thế gọi là “chân-đế”
và người ngộ được chân-đế ấy là Hiền-thánh. Hết thảy
Hiền-thánh tính vốn không-tịch, trong pháp vô-vi, giới không
có trì (giữ), phạm, cũng không có lớn, nhỏ, không có tâm-vương,
tâm-sở-pháp và, không có khổ, không có vui. Như thế, tự-tính
pháp-giới vô-cấu (không nhơ), không có tướng sai-biệt thượng,
trung, hạ. Sao vậy? Vì, vô-vi pháp-tính ấy bình-đẳng, như
nước mọi dòng sông chảy vào trong bể đều đồng một vị,
không có tướng sai-biệt. Tính vô-cấu ấy chẳng phải thực,
chẳng phải hư. Tính vô-cấu ấy là đệ-nhất-nghĩa, vì nó
không có tướng hết và diệt, thể nó vốn không sinh. Tính
vô-cấu ấy, thường-trụ bất biến, vì là tối-thắng Niết-bàn
ngã-sở thanh-tịnh. Tính vô-cấu ấy, xa-lìa hết thảy, vì
bình-đẳng và bất-bình-đẳng, thể nó vẫn không khác.
Nếu
có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn cầu vô-thượng
chính-đẳng chính-giác, cần nên một lòng tu-tập quán-pháp
tâm-địa như thế! [15]
Bấy
giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy, Ngài nói bài
kệ rằng:
Diệu-cát-tường:
giác-mẫu ba đời,
Thỉnh-vấn
Như-Lai: “tâm-địa-pháp”;
Tôi
nay trong đại-hội-chúng này,
Mở
diễn quán-hạnh-môn thành Phật.
Pháp
này khó gặp hơn Ưu-đàm,
Hết
thảy thế-gian nên khát-ngưỡng.
Chư
Phật mười phương chứng đại-giác,
Đều
từ pháp này mà tu-hành.
Tôi
là Vô-thượng điều-ngự-sư,
Quay
xe chính-pháp khắp thế-giới;
Hóa-độ
vô lượng các chúng-sinh,
Nên
biết, bởi ngộ tâm-địa-quán.
Hết
thảy chúng-sinh nghe pháp này,
Mừng
tới Bồ-đề được thụ-ký;
Những
người hữu-duyên được thụ-ký,
Tu
quán-môn này sẽ thành Phật.
Chư
Phật tự hưởng đại-pháp-lạc,
Ở
diệu-bảo-cung tâm-địa-quán;
Nhận
chức Bồ-tát, ngộ Vô-sinh,
Quán
tâm-địa-môn khắp pháp-giới.
Hậu-thân
Bồ-tát ngồi cây “giác”,
Nhập
quán-hạnh này chứng Bồ-đề.
Pháp
ấy hay mưa “thất thánh tài”,
Như
Ma-ni, mãn-nguyện chúng-sinh.
Pháp
ấy gọi là Phật-mẫu xưa,
Xuất
sinh ba thân Phật ba đời.
Pháp
ấy gọi là giáp Kim-cương,
Chống
với bốn chúng các ma-quân.
Pháp
ấy hay làm thuyền bè lớn,
Khiến
qua giữa dòng đến bảo-sở.
Pháp
ấy là trống pháp tối-thắng,
Pháp
ấy là cờ pháp nêu cao.
Pháp
ấy là loa pháp kim-cương,
Pháp
ấy là đuốc pháp soi đời.
Pháp
ấy cũng như đại-thánh-chúa,
Thưởng
công, phạt tội thuận nhân-tâm.
Pháp
ấy cũng như nước ngấm ruộng,
Sinh-thành,
trưởng-dưỡng nương thời-tiết.
Tôi
đem mọi dụ tỏ nghĩa “không”,
Thế
biết ba cõi duy một tâm.
Tâm
có đại-lực, thế-giới sinh,
Tự-tại
hay làm chủ biến-hóa.
Ác-tưởng,
thiện-tâm lại tạo-tập,
Quá,
hiện, vị-lai, nhân sinh-tử.
Nương-tựa
vọng-nghiệp có thế-gian,
Ái,
phi-ái-quả thường tương-tục. [16]
Tâm
như nước chảy chẳng tạm dừng,
Tâm
như gió bay qua đất nước.
Cũng
như hầu, vượn bám cây đùa,
Cũng
như sự giả, nương giả thành,
Như
không, chim bay không chướng-ngại,
Như
làng xóm trống người chạy nhảy.
Tâm-pháp
như thế vốn chẳng có,
Phàm-phu
mê-chấp cho là có;
Nếu
hay quán “tâm thể-tính không”,
Hoặc-chướng
không sinh, được giải-thoát. [17]
Khi
ấy, đức Như-Lai đối với các chúng-sinh khởi ra tâm đại-bi,
cũng như cha mẹ nhớ mến con một, vì muốn diệt đại-lực
tà-kiến của thế-gian, đem lại lợi-ích an-vui cho hết thảy
chúng-sinh, Ngài tuyên-thuyết thần-chú quán-tâm rằng: “Úm,
thất tha, ba-la-để, phệ đạn, ca lư nhị”.
Đức
Như-Lai nói chân-ngôn ấy rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ:
“Thần-chú ấy đủ uy-lực lớn, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân
nào khi trì chú ấy, giơ tay trong sạch lên, mười ngón tay
tả và hữu bắt tréo lại với nhau, rồi lấy tay tả áp lên
tay hữu, nắm chặt lấy nhau như hình dây buộc, gọi là “Kim-cương
phọc-ấn” [18] . Thành ấn ấy rồi, đọc-tập chân-ngôn
[19] trước trọn đủ một lượt, hơn đọc tập mười
hai bộ kinh [20] và được công-đức không thể hạn-lượng
cho đến tâm Bồ-đề không bị thoái-chuyển. [21]
TOÁT-YẾU
X.-
PHẨM QUÁN-TÂM
Đại-bồ-tát
Văn-thù sư-lỵ bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Vừa rồi
Thế-Tôn nói với 500 ông Trưởng-giả là Ngài diễn nói về
pháp-môn “tâm-địa”, vậy thế nào là “tâm”? Thế nào
là “địa”? Kính xin Thế-Tôn dạy cho”.
Khi
ấy, đức Phật thành-tựu “tối thắng trụ-trì bình-đẳng
tính-trí”, thu được “quyết-định thắng-pháp đại-thừa
trí-ấn”, chứng được “kim-cương bí-mật thù-thắng diệu-trí”,
an-trụ “vô-ngại đại-bi”, viên-mãn “diệu-quán-sát-trí”,
Ngài đem “đại-diệu-trí-ấn” ấn-khả, tán-thán Bồ-tát
Văn-thù và nói: “Pháp ấy là “tối thắng bí-mật tâm-địa
pháp-môn”, là “đốn-ngộ pháp-môn”, là đường chính
chân-thực, là bảo-cung vi-diệu, là bảo-tạng vô-tận, là
đạo-sư, là ngọc Ma-ni, là nguồn công-đức, là đuốc trí-tuệ,
là giáp-trụ, là cơ-khí chiến-thắng, là xe pháp vô-thượng,
là đại-sư-tử-vương, là đại-thánh-vương. Pháp ấy hay
làm tan các ác-nghiệp-quả, hay độ chúng-sinh bị hiểm-nạn,
hay ngừng sóng bể khổ, hay cứu chúng-sinh bị cấp-nạn, hay
làm khô kiệt sinh, lão, bệnh, tử, hay xuất sinh nhân-duyên
chủng-tử của chư Phật v.v.
“Ba
cõi lấy “tâm” làm chủ. Ba cõi duy tâm, “tâm” là “địa”
(đất). Tâm-pháp sinh ra thiện, ác, ngũ thú cùng các bậc:
hữu-học, vô-học, Độc-giác, Bồ-tát và Như-Lai. Ai gần
bạn lành, nghe pháp tâm-địa, như lý quán-sát, như nói tu-hành,
mình làm, dạy người…,sẽ dứt được 2 chướng, mau trọn
muôn hạnh và thành vô-thượng-giác!”.
Bồ-tát
Văn-thù lại bạch: “Bạch đức Thế-Tôn! Thế-Tôn nói tâm-pháp
làm chủ 3 cõi, bản-nguyên thanh-tịnh, tại sao tâm-pháp lại
nhiễm 3 độc? Gì là tâm trong các pháp thuộc 3 đời? Tâm
quá-khứ đã diệt, tâm vị-lai chưa đến, tâm hiện-tại không
trụ, nội-tính, ngoại-tướng và trung-gian của các pháp tìm
không thể được; bản-lai tâm-pháp không có hình-tướng,
trụ-xứ, ngay như chư Phật còn không thấy được tâm, huống
là người khác? Các pháp từ vọng-tưởng sinh, sao nay Thế-Tôn
lại nói “ba cõi duy tâm”? Xin Phật thương xót chúng-sinh
mà giải-thuyết cho!”.
Đức
Phật bảo Đại-bồ-tát Văn-Thù: “Nay ông hỏi về “bản-tính
không-tịch của tâm, tâm-sở-pháp”, Tôi sẽ đem các thí-dụ
sau đây để chứng-minh cho nghĩa ấy: Tâm như huyễn-pháp,
như nước chảy, như gió lớn, như đèn lửa, như chớp sáng,
như hư-không, như con vượn, như thợ vẽ, như tôi-tớ, như
người đi một mình, như quốc-vương, như oán-gia, như bụi
trần, như ảnh-tượng, như huyễn-mộng, như Dạ-xoa, như nhặng
xanh, như kẻ sát-nhân, như kẻ đối-địch, như trộm giặc,
như trống lớn, như phi-nga, như hươu đồng, như đàn lợn,
như đàn ong, như voi say… Tâm, tâm-sở-pháp như thế, không
trong, ngoài, trung-gian; trong mọi pháp, trong 3 đời không thể
tìm được. Nó siêu-việt 3 cõi, chẳng phải có, chẳng phải
không. Chúng-sinh nhiễm-trước, từ vọng-duyên khởi; vọng-duyên
không có tự-tính vì tâm-tính không. Tâm như thế không khác
vô-vi, vô-vi không khác tâm. Trong vô-vi-pháp không có lớn,
nhỏ, không có tâm-vương, tâm-sở, không có khổ, vui. Vô-vi
pháp-tính bình-đẳng. Tính ấy thường-trụ bất-biến, là
tối thắng Niết-bàn, ngã-sở thanh-tịnh. Nếu ai muốn cầu
vô-thượng-giác nên nhất-tâm tu-tập pháp quán tâm-địa ấy!”.
Tiếp
đó đức Phật thuyết chú Quán-tâm, dạy kết “Kim-cương
phọc-ấn”, giúp chúng-sinh diệt tà-kiến. Nếu ai y pháp thực-hành
được công-đức vô-lượng.
[1] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “Niết-bàn”
Bồ-tát Văn-thù thay đại-chúng hỏi đức Phật về ý-nghĩa
chữ “Tâm-địa”, mong cho chúng-sinh khỏi khổ, an-vui, phát-tâm,
chứng-quả, cùng vào được đạo Nhất-thực (Nhất-đạo)
để được viên-tịch.
[2] Đại-diệu-trí-ấn: Là trí-tuệ rất rộng lớn, vi-diệu không
nghĩ, bàn được của Phật, do tu 3 vô số kiếp, đến khi
nhân trọn quả đủ mà được.
[3] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy” tới chữ “nghe”, đức
Phật ấn-khả lời thỉnh của Bồ-tát Văn-thù. Đức Phật
còn khen ngợi Bồ-tát Văn-thù là Phật-mẫu trong 3 đời, vì
Bồ-tát Văn-thù biểu-hiện cho trí-tuệ và vì dẫn đạo cho
các vị mới phát tâm.
[4] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó” đến chữ “nói”, hiển-thị
5 đức thù-thắng vi-diệu của Phật: 1/ Hiển-thị trí-tuệ
tối-thắng trong lý-trí bình-đẳng, thị-hiện Thắng-ứng-thân
và Tha-thụ-dụng-thân, giáo-hóa hàng Gia-hạnh Bồ-tát cùng
Sơ-địa Bồ-tát. 2/ Hiển-thị trí-tuệ vô phân-biệt của
Đại-thừa, ấn-chứng các pháp không sinh, không diệt, quyết-định
là “Thắng-nghĩa-đế-pháp”. 3/ Hiển-thị trí-tuệ kiên-cố,
cao-siêu, vi-diệu mà chỉ Phật với Phật mới chứng được
bằng cách rốt-ráo. 4/ Hiển-thị lòng thương rộng lớn, độ
tận chúng-sinh, không chút phân-biệt, chướng-ngại. 5/ Hiển-thị
trí-tuệ viên-dung, nhậm-vận tự-tại, thấu suốt căn-cơ
chúng-sinh, dùng viên-âm thuyết-pháp hóa-độ.
[5] Đây nói: pháp-môn tâm-địa là pháp-môn sao-siêu, hàng Tam-thừa
không thể hiểu nổi, mà chỉ khi chứng Phật-quả viên-mãn
mới hiểu thấu được.
[6] Đốn-ngộ: Một trong 2 sự chứng-ngộ: Đốn-ngộ là chúng-sinh
phát đại-tâm (Bồ-tát), nghe Đại-thừa, làm đại-pháp mà
chứng-ngộ ngay được diệu-quả. Trái lại là Tiệm-ngộ.
Tiệm-ngộ: là chúng-sinh phải tu lần-lượt từ thấp đến
cao, mãi mãi mới chứng-ngộ được.
[7] Sắc-cứu-cánh tự-tại-trí: Trí-tuệ cao-siêu tự-tại như
cõi Sắc-cứu-cánh là cõi tận cùng của cõi Sắc. Mà cũng
là khi Bồ-tát sắp thành Phật, địa-vị ở nơi Sắc-cứu-cánh-thiên,
vượt qua 3 cõi, mà thành Phật-quả Bồ-đề.
[8] Hậu-thân Bồ-tát: Chỉ cho các vị Bồ-tát sau này, tức là
sau khi đức Phật nhập-diệt rồi.
[9] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy đức Thế-Tôn bảo Vô-cấu…”,
đến chỗ “chu-diệt”, đức Phật nói: “pháp-môn tâm-địa”
như 25 thứ đem lại cho các hàng tu-hành và chúng-sinh được
nhiều phúc-lợi.
[10] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử”, đến chỗ “chính-giác”,
đức Phật nói rõ tâm là chủ, tâm như đất. Ai tu được
tâm, sẽ chóng thành vô-thượng-giác.
[11] Đoạn trên, từ chỗ “Đến đây”, đến chỗ “giải-thuyết
cho!”, Bồ-tát Văn-thù hỏi vặn Phật về cái tâm đối với
quá-khứ, hiện-tại, vị-lai… sao thấy được?
[12] Khách-trần phiền-não: Đây là hình-dung cho phiền-não vọng-khởi.
Phiền-não không phải là vật cố-hữu của tâm-tính, chỉ
vì mê lý mà phát-khởi, cũng như lữ-khách, chỉ trú nơi hàng
quán trong chốc-lát nghỉ-ngơi, chứ không phải là chủ vĩnh-viễn,
nên gọi là “khách”. Mặc dầu phiền-não là khách, nhưng
nó cũng làm nhơ-nhớp tâm-tính nên gọi là “trần”.
[13] Đoạn trên từ chỗ “Thiện-nam-tử”, đến chỗ “voi cái”,
đức Phật đem 26 vật tỷ-dụ cho “tâm”. Những vật ấy
chỉ do sự tính-toán, so-lường, chấp-trước mê lầm mà sinh
ra, đâu phải chân-tâm!
[14] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử” đến chỗ “viễn-ly”,
tỏ bày về “không-tính”. Tâm, tâm-sở-pháp không có chỗ
nhất-định, nên không có những tướng-trạng trong, ngoài,
trung-gian, trong 3 đời hay vượt ngoài 3 đời cũng không tìm
thấy thể-tính thực-tại của nó được. Vì, thể-tính của
tâm là chân-không, hay chân-như, nên hết thảy tự-tính của
các pháp cũng đều thế.
[15] Đoạn trên, từ chỗ “Những tâm như thế”, đến chỗ “như
thế”, đức Phật chỉ thẳng vào thể-tính của tâm là vô-vi
(tức là tự-pháp-giới). Nhưng, vô-vi cũng chỉ là mượn danh-từ,
chứ thực ra là không thể nói được. Vô-vi pháp-tính không
còn tạo-tác, sai-biệt, nhơ, sạch…, nó xa lìa hết thảy.
Ngộ được như thế là hiểu được thực-nghĩa của chân-lý
và là Hiền-thánh. Phật-tử nên tu phép quán tâm-địa này,
sẽ thành vô-thượng-giác.
[16] 4 câu, từ chỗ “Ác-tưởng” đến chỗ “tương-tục”
đại-ý nói: tâm-pháp là chỗ tạo-tác và chứa góp hết thảy
thiện và ác. Do có tạo-tác và chứa góp ấy mà thành ra nhân
sinh-tử 3 đời, theo với nghiệp-nhân mà cảm quả. Nhân-ái-dục
(ác) thời cảm quả-báo ái-dục (ác), nhân phi-ái-dục (không
phải ái-dục: thiện), thời cảm quả-báo phi-ái-dục (thiện),
cứ nối tiếp nhau mãi.
[17] Toàn thể văn kệ trên, đức Phật nhắc lại sự mê nhận
tâm của chúng-sinh và chỉ bày thể-tính chân-không của tâm
mà thôi.
[18] Kim-cương phọc-ấn: Biểu-hiệu cho tất cả đều ở trong
thể-tính chân-như bất-hoại.
[19] Chân-ngôn (Mantra): Lời nói vi-diệu ngầm hợp với thể-tính
chân-như.
[20] 12 bộ kinh: Trong kinh Phật có chia làm 12 phận-giáo: 1/ Tu-đa-la:
(Sùtra: khế-kinh: văn suôi). 2/ Kỳ-dạ (Geya: trùng-tụng: bài
kệ nói lại nghĩa của văn suôi). 3/ Già-đà (Gàthà: phúng-tụng:
bài kệ 4 câu đứng riêng, không liền với văn suôi). 4/ Ni-đà-na
(Nidà-na: nhân-duyên). 5/ Y-đế-mục-da (Ytivrtaka: Bản-sự: nói
những việc đời trước). 6/ Xà-đa-già (Jàtaka : Bản-sinh:
Phật tự nói nhân-duyên mình đời quá-khứ). 7/ A-phù-đạt-ma
(Adbhuta-dharma: Vị tằng-hữu: làm những sự hiếm có). 8/ A-ba-đà-na
(Avadàna: Thí-dụ). 9/ Ưu-bà-đề-xa (Upadesa: luận nghĩa). 10/
Ưu-đà-na (Uda-na: tự-thuyết: tự Phật nói, không đợi ai
hỏi). 11/ Tỳ-phật-lược (Vaipulya: phương-quảng: văn nói
về chân-lý phương-chính, quảng-đại, tức là Đại-thừa-giáo).
12/ Hòa-già-la (Vyàkarana: thụ-ký).
[21] Đoạn trên, từ chỗ “Khi ấy”, đến chỗ “thoái-chuyển”,
đức Phật quá thương chúng-sinh muốn cho chúng-sinh chóng bỏ
tà-kiến chóng ngộ chân-tâm, Ngài liền thuyết thần-chú,
dạy kết-ấn, để trợ-duyên cho người tu-hành về môn quán
tâm này.
IX.- PHẨM
CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM [1]
Bấy
giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Như Phật nói ở nơi A-lan-nhã, công-đức thành-tựu
sẽ được thành Phật, vậy Bồ-tát làm sao và tu các công-đức
gì mà có thể ở trong nơi A-lan-nhã này được? Kính xin đức
Thế-Tôn vì tôi mà giải-thuyết cho”.
Lúc
đó, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Các ông, thiện-nam-tử!
Cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở
nơi A-lan-nhã, cầu vô-thượng-đạo được. Một đức ấy
là gì? Là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não, tức là
tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể chịu đựng ở
nơi A-lan-nhã được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị
người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi
theo người. Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhã, người mới
phát tâm cũng như thế. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp, tâm người ấy nhiễm-trước, là người ấy không
biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của năm
cảnh [2] từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể ở
nơi A-lan-nhã được bằng cách toàn-thiện. Bởi nhân-duyên
ấy, hết thảy Đại-bồ-tát thích ở nơi tịch-tĩnh, cầu
vô thượng-đạo. Nếu khi cảnh ngũ-dục hiện ra trước mắt,
nên quán-sát tự tâm và nên nghĩ thế này: “Ta từ đời
vô-thủy đến ngày nay, luân-hồi trong sáu thú, không có kỳ
nào ra được là đều tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo,
đối với cảnh ngũ-dục, tham-ái nhiễm-trước”. Bồ-tát
như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã.
Nếu có người hỏi: “Chúng-sinh nào ở đời mai sau sẽ được
thành Phật? Nên chỉ người ấy trong đời mai sau, thoát khỏi
khổ trong ba cõi, phá bốn ma-quân [3] chóng thành Bồ-đề,
chứng-nhập trí-tuệ Phật, hết thảy thế-gian: Thiên, long
tám bộ…, đều nên cúng-dàng! Nếu thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhân
nào lấy tâm thanh-tịnh cúng-dàng vị chân-Phật-tử ở nơi
A-lan-nhã như thế, được vô-lượng vô-biên phúc-đức. Như
có người đem mọi thứ trân bảo cúng-dàng bi-mẫu được
công-đức thế nào, thời công-đức kia cũng như thế không
khác. Sao vậy? Người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác, quay xe chính-pháp, độ Nhân, Thiên-chúng, nối Tam-bảo-chủng
khiến không đoạn-tuyệt và sẽ là chỗ quy-y cho chúng-sinh.
[4]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Có hai pháp ràng-buộc người tu hành,
làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một
là, yêu thích đoạn-kiến tà-pháp. Hai là, yêu thích của báu,
đồ vui.
Lại,
thiện-nam-tử! Có hai hạng người không chịu đựng ở nơi
A-lan-nhã được: Một là, hạng người đầy dẫy sự kiêu
mạn. Hai là, hạng người ghét giáo-pháp Đại-thừa.
Lại,
thiện-nam-tử! Có hai hạng người không nên ở nơi A-lan-nhã:
Một là, hạng người tà-kiến, không tin lời Phật. Hai là,
hạng người tự thân phá-giới, sách-dịch trì-giới. Những
người như thế, không nên ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng.
[5]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Người đủ bốn đức cần nên an trụ
nơi A-lan-nhã. Những gì là bốn? Một là, danh-văn (nghe giỏi):
tóm giữ điều nghe được không quên. Hai là, phân-minh: hiểu
biết rành-rẽ nghĩa vi-diệu. Ba là, chính-niệm: luôn luôn
không phóng-dật. Bốn là, tùy-thuận: như giáo-lý mà thực-hành.
Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn thắng-đức
như thế, cần nên an-trụ nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát, cầu
đạo vô-thượng.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, trang-nghiêm
tự-thân, ở A-lan-nhã, cầu trí tuệ Phật. Những gì là bốn?
Một là, đại-từ. Hai là, đại-bi. Ba là, đại-hỷ. Bốn
là, đại-xả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, sinh ra hết
thảy phúc-đức, trí-tuệ, đem lại lợi-ích an-vui cho vô-lượng
chúng-sinh, chóng chứng pháp Đại-bồ-đề vô-thượng.
Lại
nữa, bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, giữ giới thanh-tịnh,
đạt đến Bồ-đề. Những gì là bốn? Một là, thường trụ
trong bốn vô-cấu-tính. Hai là, thường làm mười hai hạnh
Đầu-đà. Ba là, xa lìa tại-gia xuất-gia. Bốn là, bỏ hẳn
lừa, nịnh, ghen-ghét. Thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát y vào
bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh-tử, được Đại-bồ-đề. [6]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp tóm
thâu hết thảy thiện. Những gì là bốn? Một là, giữ giới
cấm thanh-tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là, nhập các chính-định,
đầy-đủ các trí-tuệ. Ba là, được sáu phép thần-thông,
tu cả chủng-trí. Bốn là, phương-tiện thiện-sảo, lại không
phóng-dật. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, các Bồ-tát
trong ba đời cùng tu học, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập,
sẽ chóng chứng được đạo Bồ-đề rộng lớn vô-thượng.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia đủ bốn pháp, đối
với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Những gì là
bốn? Một là, bố thí. Hai là, ái-ngữ. Ba là, lợi-hành. Bốn
là, đồng sự. Thiện-nam-tử! Bốn hạnh như thế, là con đường
đi tới Bồ-đề, là căn-bản lợi-sinh, hết thảy Bồ-tát
đều nên tu học.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại đủ bốn đức
ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.
Những gì là bốn? Một là, quán-sát tự-thân không có bản-tính,
để dẹp dứt hai chấp (ngã, pháp) chứng lý vô-ngã. Hai là,
quán-sát tha-thân cũng không có bản-tính, để đối với kẻ
oán, thân, lìa bỏ được sự yêu, ghét. Ba là, thân tâm khoái-lạc,
để tâm và tâm sở-pháp không còn phân-biệt. Bốn là, được
bình-đẳng-trí, để sinh-tử và Niết-bàn không có sự sai
khác. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát
nên tu-tập, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ đi tới
đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát lại có bốn nguyện
làm cho chúng-sinh được thành-thục và giữ-gìn ngôi Tam-bảo
trải qua đại-kiếp-hải quyết không thoái-chuyển. Những
gì là bốn? - Một là, thề độ hết thảy chúng-sinh. Hai là,
thề đoạn hết thảy phiền-não. Ba là, thề học hết thảy
pháp-môn. Bốn là, thề chứng hết thảy Phật-quả. Thiện-nam-tử!
Bốn pháp như thế, Bồ-tát lớn, nhỏ đều nên học tập,
vì nó là chỗ học của Bồ-tát trong ba đời!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp ở
nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh. Những gì là bốn? - Một
là, yêu-thích “không-tính”, vì “không-lý” hiển-lộ.
Hai là, được sự không sợ hãi, vì chứng được chính-định.
Ba là, đối với các chúng-sinh khởi ra bi-nguyện lớn. Bốn
là, đối với hai thứ vô-ngã [7] , không có tâm chán-ngán.
Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế là cửa quan-yếu của hết
thảy Bồ-tát chứng-nhập Thánh-quả, vì y vào bốn pháp ấy
dứt bỏ được hai chướng!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp, ở
nơi A-lan-nhã, khéo giữ giới cấm, trang-nghiêm tự thân. Những
gì là bốn? - Một là, bỏ hẳn ngã-kiến. Hai là, bỏ ngã-sở-kiến.
Ba là, lìa đoạn, thường-kiến. Bốn là, hiểu-biết sâu rộng
về mười hai nhân-duyên. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế,
trừ được sự hủy-phạm giới cấm, giữ-gìn tịnh-giới,
trang-nghiêm tự thân.
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
quán bốn pháp, giữ được giới cấm, tu thêm diệu-hạnh,
cầu đạt Phật-trí. Những gì là bốn? - Một là, quán-sát
năm uẩn sinh-diệt. Hai là, quán-sát mười hai nhân-duyên như
làng xóm trống. Ba là, quán-sát mười tám giới tính đồng
pháp-giới. Bốn là, đối với pháp tục-đế [8] không
bỏ, không ham. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy
Bồ-tát nên tu học và vì thế Phật-tử ở nơi A-lan-nhã nên
một lòng tu-tập, cầu đạo vô-thượng!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ
bốn pháp trì-giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân. Những
gì là bốn? - Một là, thành-tựu quán “bất kiến-thân”.
Hai là, thành-tựu quán “bất kiến-ngữ”. Ba là, thành-tựu
quán “bất kiến-ý”. Bốn là, xa-lìa sáu mươi hai kiến,
thành-tựu quán “nhất-thiết-trí” [9] . Thiện-nam-tử! Nếu
có Phật-tử thành-tựu bốn pháp thanh-tịnh như thế, hiện-thân
chứng được “chính-tính ly-sinh” [10] , cho đến chóng chứng
được vô-thượng Bồ-đề. Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử
các ông quán bốn pháp-môn như thế, dứt bốn ác-đạo, chứng
bốn bậc Niết-bàn, hết thuở vị-lai, độ các chúng-sinh,
khiến chứng được đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!
[11]
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ
tám pháp Tam-muội thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì
là tám? - Một là, ngồi một mình ở nơi A-lan-nhã, Tam-muội
thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa lời nói thêu-dệt, Tam-muội thanh-tịnh.
Ba là, xa-lìa năm dục, Tam-muội thanh-tịnh. Bốn là, điều-phục
thân-tâm, Tam-muội thanh-tịnh. Năm là, ăn uống tri-túc, Tam-muội
thanh-tịnh. Sáu là, xa-lìa ác-cầu, Tam-muội thanh-tịnh. Bảy
là, xa-lìa sự nhân nghe giọng tiếng khởi ra tham-ái, Tam-muội
thanh-tịnh. Tám là, vì chúng nói pháp không cầu lợi-dưỡng,
Tam-muội thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Cần nên tu-tập sẽ chóng
chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
có tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh. Những gì là tám? - Một là,
năm uẩn thiện-sảo [12] , trí-tuệ thanh-tịnh. Hai là, mười
hai xứ thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Ba là, mười tám giới
thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Bốn là, hai mươi hai căn
[13] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Năm
là, ba giải-thoát-môn thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh.
Sáu là, hay diệt hết thảy phiền-não thiện-sảo phương-tiện,
trí-tuệ thanh-tịnh. Bảy là, hay diệt tùy phiền-não [14] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Tám là, hay diệt
sáu mươi hai kiến thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh.
Thiện-nam-tử! Tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh như thế, Bồ-tát
các ông nên cần tu-tập, sẽ chóng chứng được vô-thượng
chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại
có tám thứ thần-thông thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những
gì là tám? - Một là, đối với mọi sắc-pháp [15] không
bị chướng-ngại, được Thiên-nhãn thiện-sảo phương-tiện,
thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhãn-thông). Hai là, đối với
cảnh thanh-trần (tiếng), không bị chướng-ngại, được Thiên-nhĩ
thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhĩ-thông).
Ba là, đối với các tâm, tâm-sở-pháp của chúng-sinh không
bị chướng-ngại, được Tha-tâm-trí thiện-sảo phương-tiện,
thần-thông thanh-tịnh (Tha-tâm-thông). Bốn là, ghi nhớ nơi
sinh, nơi chết trong quá-khứ không bị chướng-ngại, được
Túc-trụ-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh
(Túc-mệnh-thông). Năm là, đi khắp vô-số cõi Phật trong mười
phương không bị chướng-ngại, được Thần-cảnh-trí thiện-sảo
phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thần-túc-thông). Sáu
là, biết được lậu-nghiệp của chúng-sinh hết hay chưa hết
không bị chướng-ngại, được Lậu-tận-trí thiện-sảo phương-tiện
thần-thông thanh-tịnh (Lậu-tận-thông). Bảy là, diệt được
hết thảy phiền-não không bị chướng-ngại, được Vô-lậu-trí
thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Tám là, hiện
thấy hết thảy thiện-căn nơi tự-thân hồi-hướng chúng-sinh
thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Thiện-nam-tử!
Tám thứ thần-thông thanh-tịnh như thế, các Bồ-tát trong
mười phương đồng tu học, Bồ-tát các ông cũng nên tu-tập,
sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, hiện thân
được tám thứ thanh-tịnh. Những gì là tám? Một là, thân-nghiệp
thanh-tịnh. Hai là, ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Ba là, ý-nghiệp
thanh-tịnh. Bốn là, chính-tính [16] thanh-tịnh. Năm là,
chính-niệm thanh-tịnh. Sáu là, Đầu-đà thanh-tịnh. Bảy là,
lìa xiểm-nịnh thanh-tịnh. Tám là, một niệm không quên tâm
Bồ-đề thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử ở nơi
A-lan-nhã, đầy-đủ tám thứ thanh-tịnh như thế, hiện-thân
thành-tựu vô-biên thiện-căn, không bị thoái-chuyển đạo
vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!
Lại
nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có tám thứ: Đa-văn
(nghe, học nhiều) thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì
là tám? - Một là, tôn-kính Hòa-thượng, A-xà-lê, đa-văn thanh-tịnh.
Hai là, xa-lìa kiêu-mạn, sinh tâm nhún-nhường, đa-văn thanh-tịnh.
Ba là, tinh-tiến dũng-mãnh, đa-văn thanh-tịnh. Bốn là, an-trụ
chính-niệm, đa-văn thanh-tịnh. Năm là, vì người cầu pháp,
nói nghĩa sâu rộng, đa-văn thanh-tịnh. Sáu là, không ưa bảo-hộ
mình, chê người, đa-văn thanh-tịnh. Bảy là, thường hay quán-sát
hết thảy thiện-pháp, đa-văn thanh-tịnh. Tám là, lắng nghe
chính-pháp, y như chỗ nói mà tu-hành, đa-văn thanh-tịnh. Thiện-nam-tử!
Tám thứ đa-văn thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông đều
nên tu-tập, sẽ chóng chứng được Vô-thượng chính đẳng
Bồ-đề! [17]
Khi
đức Thế-Tôn nói những hạnh Bồ-tát như thế rồi, Ngài
bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Sau khi Tôi
nhập Niết-bàn chừng năm trăm năm lúc chính-pháp sắp diệt,
vô-lượng chúng-sinh chán, bỏ thế-gian, khát-ngưỡng Như-Lai,
phát-tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác vào nơi A-lan-nhã,
vì đạo vô-thượng, tu-tập những hạnh-nguyện Bồ-tát như
thế, đối với đạo Đại-bồ-đề được bất-thoái-chuyển.
Vô-lượng chúng-sinh phát tâm như thế, khi mệnh-chung được
sinh lên cung trời Đâu-suất, được thấy thân ông (Di-Lặc
Bồ-tát) vô-biên phúc-trí trang-nghiêm, siêu-việt sinh-tử,
chứng Bất-thoái-chuyển. Và, ở đời mai sau ngồi dưới cây
Bồ-đề Đại-bảo long-hoa được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác.
Trong
lúc đức Thế-Tôn nói pháp ấy, hai vạn năm nghìn vị Bồ-tát
mới phát tâm, đối với hạnh Bồ-đề sắp bị thoái-chuyển,
nghe được pháp như thế, phát tâm kiên-cố, qua ngôi Thập-tín
đến ngôi thứ sáu trong Thập-trụ. Ba vạn tám nghìn Bà-la-môn
tịnh-hạnh dứt hẳn tà-kiến, được đại-pháp-nhẫn và
Đà-ra-ni. Bảy vạn sáu nghìn người đều phát tâm vô đẳng-đẳng,
vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [18]
TOÁT-YẾU
IX.-
PHẨM CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM
Đại-bồ-tát
Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-tát tu công-đức
gì mới có thể ở trong A-lan-nhã được?”
Đức
Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Chỉ cần tu một pháp là
“quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự-tâm”,
là ở được nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. Nếu ai
không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của
5 cảnh từ tự-tâm sinh, còn nhiễm-trước vào 6 trần, chưa
thể ở A-lan-nhã được. Đại-bồ-tát ở nơi tịch-tĩnh thấy
cảnh ngũ-dục nên quán tự-tâm và nghĩ: “Từ trước tới
nay bị luân-hồi lục-đạo đều do tự nơi vọng-tâm sinh
ra mê-hoặc, điên-đảo, tham-nhiễm ngũ-dục”. Bồ-tát như
thế là người ở được nơi A-lan-nhã, sau sẽ thành Phật
và ai cúng-dàng vị ấy được phúc-đức vô-lượng”.
Có
những hạng người không ở nơi A-lan-nhã được: hạng người
thích đoạn-kiến, thích của báu, đồ vui, kiêu-mạn, ghét
giáo-pháp Đại-thừa, ưa tà-kiến, không tin Phật, tự phá
giới sai trì giới.
Những
người ở nơi A-lan-nhã có những đức sau đây: Đầy đủ
danh-văn (nghe giỏi), hiểu biết phân-minh, chính-niệm, tùy
thuận. Có từ, bi, hỷ, xả. Thường trụ trong 4 vô-cấu-tính,
thường làm 12 hạnh Đầu-đà, xa lìa tại-gia xuất-gia, bỏ
hẳn lừa, nịnh, ghen ghét. Giữ giới nghe nhiều, nhập chính-định,
đủ trí-tuệ, được lục thông, tu chủng-trí, đủ phương-tiện,
không phóng-dật. Đủ bố-thí, ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự.
Quán tự thân không bản-tính, quán tha-thân không bản-tính,
thân-tâm khoái-lạc, được bình-đẳng-trí. Đoạn phiền-não,
độ chúng-sinh, học pháp-môn, chứng Phật-quả. Thích không-tính,
được vô-úy, khởi bi-nguyện, không chán hai thứ vô-ngã.
Bỏ ngã-kiến, biết rộng 12 nhân-duyên. Quán 5 uẩn sinh diệt,
quán 12 nhân-duyên như làng trống, quán 18 giới tính đồng
pháp-giới, tục-đế-pháp không bỏ không ham. Thành-tựu: quán
bất-kiến-thân, bất-kiến-ngữ, bất-kiến-ý và nhất-thiết-trí.
(Phật-tử thành-tựu 4 pháp thanh-tịnh ấy, hiện-thân chứng
được “chính-tính ly sinh”. Chóng thành vô-thượng-giác).
Đầy
đủ 8 pháp tam-muội thanh-tịnh, 8 pháp trí-tuệ thanh-tịnh,
8 thứ thần-thông thanh-tịnh; hiện-thân được 8 thứ thanh-tịnh.
Và, Bồ-tát lại có 8 thứ đa-văn thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.
Đức
Phật lại bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Sau khi Tôi nhập-diệt
chừng 500 năm có nhiều chúng-sinh phát tâm vô-thượng vào
nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát được bất-thoái-chuyển. Nhiều
chúng-sinh như thế, mệnh-chung sinh lên Đâu-suất, được gặp
ông (Di-Lặc) chứng bất-thoái-chuyển và sau sẽ thành Phật”.
Khi
nghe đức Phật nói Pháp ấy xong, 15.000 Bồ-tát phát tâm kiên-cố,
qua Thập-tín đến ngôi thứ 6 trong Thập-trụ, 38.000 Bà-la-môn
được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni, 76.000 người phát tâm
vô-thượng-giác.
[1] Công-đức trang-nghiêm: “Công” là công-năng trong việc lợi-ích,
phúc-đức; công-năng ấy là đức của thiện-hạnh, nên gọi
là “công-đức”. “Đức” còn có nghĩa là được, do công
tu mà được, gọi là “Công-đức”. “Trang-nghiêm” có
nghĩa là đem những cái hay, cái đẹp, tô-điểm cho đất nước
huy-hoàng, hoặc đem những công-đức tô-điểm cho thân-thể
nghiêm-trang, đẹp-đẽ. Nơi đây, các Bồ-tát đem công-đức
tu được, tô-điểm cho tự-thân, quốc-giới, chúng-sinh được
tốt đẹp.
[2] Năm cảnh: Tức sắc, thanh, hương, vị và xúc.
[3] Bốn ma-quân: 1/ Phiền-não-ma: tham, sân, si…, làm não-hại
thân-tâm nên gọi là ma. 2/ Ngũ-ấm-ma: 5 thứ: sắc, thụ, tưởng,
hành, thức hay sinh ra mọi khổ-não nên gọi là ma. 3/ Tử-ma:
sự chết hay dứt thân-mệnh người ta, nên gọi là ma. 4/ Thiên-ma:
cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên hay làm hại việc thiện của người
nên gọi là thiên-ma (ma nơi cõi trời).
[4] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “chúng-sinh”,
Bồ-tát Di-Lặc hỏi về công-đức tu của Bồ-tát, đức Phật
thuyết-minh về một đức mà các Bồ-tát cần tu, đó là đức
“quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự tâm”.
Nghĩa là, tâm thanh-tịnh không nhiễm. Người được thế là
chân-Phật-tử, nên cúng-dàng.
[5] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “vô-thượng”,
đức Phật thuyết-minh về hai lỗi mà người ở Lan-nhã cần
xa tránh, như những người cho không có nhân-quả, chỉ một
đời là hết v.v…
[6] Chỗ này còn một đoạn: “Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát
xuất-gia lại có 4 pháp khỏi hẳn sinh-tử được đại-bồ-đề”.-
Vì không có những câu sau nữa, sợ lầm, nên không để trên
chính-văn, mà ghi đây để tồn cổ (lời dịch-giả)
[7] Hai thứ vô-ngã: 1/ Nhân-vô-ngã: Cái ta tự-thể, tự-chủ là
“ngã”. Người ta không hiểu thấu nghĩa 5 uẩn giả-hợp,
cố chấp thân-thể con người là thực, có tự-chủ, tự-tại
gọi là “nhân-ngã”. Nay hiểu rõ nghĩa 5 uẩn giả-hợp,
thấu suốt đến chỗ thực không có thực-thể của con người
là “Nhân-vô-ngã”. Đó là sự quán đạo của Tiểu-thừa
để dứt phiền-não-chướng, chứng Niết-bàn vậy. 2/ Pháp
vô-ngã: Cố chấp các pháp (sự vật) có thực-thể, thực-dụng
là “pháp-ngã”. Nay hiểu rõ các pháp do nhân-duyên-sinh, thấu
suốt đến chỗ thực không có tự-tính là “Pháp-vô-ngã”.
Đó là quán-đạo của Đại-thừa Bồ-tát, để dứt sở-tri-chướng,
mà được Bồ-đề vậy. Tiểu-thừa chỉ ngộ có “nhân-vô-ngã”,
nhưng Bồ-tát ngộ cả 2 thứ vô-ngã.
[8] Tục-đế: Thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn gọi là “Thế-đế”.
Trái với Tục-đế là “Chân-đế”. Chân-đế là thực-nghĩa
của chân-lý. Là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhân thấy.
Còn gọi là “Thắng-nghĩa-đế”.
[9] 4 pháp trên là quán về thân, khẩu, ý và 62 kiến. Quán thân
như-huyễn, không khởi ra sự chấp-trước về thân-kiến.
Quán ngôn-ngữ tính không, không khởi ra 4 sự bất thiện về
nghiệp khẩu. Quán ý, tức tâm, tâm sở đều do duyên-khởi,
không có tự-tính, tức không khởi ra sự phân-biệt. Quán
62 kiến, bỏ hết thảy tà-kiến.
[10] Chính-tính ly-sinh: Còn gọi là “Thánh-tính ly-sinh”. Sinh vô-lậu-trí
dứt trừ phiền-não, nên gọi là “Thánh-tính”. Thanh-văn,
Duyên-giác vào ngôi Kiến-đạo, sinh được một phần trí-tuệ
vô-lậu, dứt phiền-não-chướng; Bồ-tát sinh một phần trí-tuệ
vô-lậu, dứt trừ cả hai chướng: phiền-não và sở-tri, nhân
đó mà được một phần Thánh-tính, xa lìa hẳn sự sinh-khởi
của dị-tính (phàm-phu), nên gọi là “Thánh-tính ly-sinh”.
Chữ “Thánh” có nghĩa là “chính”, nên “Thánh-tính ly-sinh”
tức là “chính-tính ly-sinh”.
[11] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa thiện-nam-tử! Người đủ
4 đức…”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật thuyết-minh
về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã cần có 11 loại thuộc về 4 đức.
[12] Thiện-sảo: Có nghĩa là tốt lành, hay đẹp, khéo-léo, nhiệm-mầu.
[13] 22 căn: 1/ Nhãn-căn (Caksurindriya): mắt. 2/ Nhĩ-căn (Srotrendriya):
tai. 3/ Tỵ-căn (Ghrànend-riya): mũi. 4/ Thiệt-căn (Jihvendriya):
lưỡi. 5/ Thân-căn (Kày-endriya): thân-thể. 6/ Ý-căn (Manendriya).
(Trở lên thường gọi là 6 căn). 7/ Nữ-căn (Strindriya): bộ
sinh-dục của đàn bà. 8/ Nam-căn (Purusendriya): bộ sinh-dục
của đàn ông. 9/ Mệnh-căn (Jivitendriya): thọ-mệnh của chúng-sinh.
10/ Khổ-căn (Duhkhendriya): đau khổ. 11/ Lạc-căn (Suk-hendriya):
vui sướng. 12/ Ưu-căn (Daumanasyendriya): lo-lắng. 13/ Hỷ-căn
(Saumanasyendriya): vui mừng. 14/ Xả-căn (Upekendriya): không vui
không buồn. (Trở lên 5 căn thuộc về sự hưởng-thụ, thường
gọi là 5 thụ). 15/ Tín-căn (Sraddhendriya): tin thực. 16/ Tinh-tiến-căn
(Viryen-driya): gắng tiến. 17/ Niệm-căn (Smrrtindriya): nhớ nghĩ.
18/ Định-căn (Samàdhindriya): an-định. 19/ Tuệ-căn (Pra-jnedriya):
hiểu biết. (Trở lên là ngũ-căn). 20/ Vị-tri-đương-tri-căn
(Anàjnàtamàsyàmindriya): người tu 9 căn: ý, lạc, hỷ, xả,
tín, tiến, niệm, định, tuệ trong Kiến-đạo, muốn biết
lý Tứ-đế chưa từng biết, mà phát-khởi ra hành-động.
21/ Dĩ-tri-căn (Àjnendriya): người tu 9 căn kia trong Tu-đạo
tuy đã biết rõ lý Tứ-đế rồi nhưng, lại vì dứt các phiền-não
khác, nên đối với cảnh Tứ-đế thường thường phải hiểu
biết. 22/ Cụ-tri-căn (Àjnàtàvindriya): người tu 9 căn kia ở
trong vô-học-đạo đã biết trong sự biết rõ lý Tứ-đế,
tức là đã có đầy-đủ về sự biết ấy. (Trở lên là
3 căn vô-lậu-căn).
[14] Tùy-phiền-não: Những phiền-não tùy thuộc vào căn-bản phiền-não.
Căn-bản phiền-não có 6 là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến,
(ác-kiến có 5: thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiến-thủ,
giới-cấm-thủ). Tùy phiền-não có 20: 10 tiểu-tùy: phẫn,
hận, phú, não, tật, khan, cuống, xiểm, hại, kiêu; 2 trung
tùy: vô tàm, vô quý và 8 đại-tùy: điệu-cử, hôn-trầm,
bất-tín, giải-đãi, phóng-dật, thất-niệm, tán-loạn, bất-chính-tri.
[15] Sắc-pháp: Chỉ cho những pháp (sự-vật) thuộc ảnh-tướng,
có đối-đãi, có hình-chất chướng-ngại. Duy-thức-học cho:
nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc và
một phần pháp-trần thuộc về sắc-pháp.
[16] Chính-tính: Cũng gọi là Thánh-tính. Chủng-tử của vô-lậu-trí
là “Thánh-tính”; xa lìa phiền-não là “Chính-tính”.
[17] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, thiện-nam-tử…đầy-đủ
8 pháp”, đến chỗ “chính-đẳng Bồ-đề”, đức Phật
thuyết-minh về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã có 8 pháp Tam-muội thanh-tịnh,
8 thứ trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh, 8
thứ thanh-tịnh nơi hiện thân và 8 thứ đa-văn thanh-tịnh.
Được những 8 đức ấy sẽ chóng chứng vô-thượng-giác.
[18] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chỗ “chính-giác”, đức
Phật nói sau này ai thực-hành hạnh Lan-nhã sẽ được nhiều
lợi-ích. Và đương thời, do nghe pháp, chúng-nhân cũng hưởng
được nhiều lợi-ích.
Đến
đây hết quyển thứ 7.