Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Phẩm Phát Bồ Đề Tâm

19 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10492)
11. Phẩm Phát Bồ Đề Tâm

KINH ĐẠI-THỪA BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN
Đường, Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

XI.- PHẨM PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM [1] 

Bấy giờ, đức Thế-Tôn đã được “quán-đỉnh bảo-quan” của hết thảy Như-Lai, vượt qua ba cõi; đã viên-mãn được Đà-ra-ni tự-tại, đã chứng viên-mãn được Tam-ma-địa tự-tại, thành-thục tốt-đẹp Nhất-thiết-trí-trí, Nhất-thiết-chủng-trí và hay làm được mọi sự sai biệt đối với hữu-tình. [2] 

Khi đức Thế-Tôn vì các chúng-sinh tuyên-thuyết về diệu-môn “Quán tâm” rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Đại-thiện-nam-tử! Tôi đã vì chúng-sinh nói về “tâm-địa” rồi, nay Tôi lại sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm đại-đà-ra-ni”, để cho các chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, mau viên-mãn được diệu-quả”. [3] 

Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói “Quá-khứ đã diệt, vị-lai chưa đến, hiện-tại không trụ, hết thảy tâm-pháp có trong ba đời, bản-tính của nó đều không, vậy tâm bồ-đề kia, nói vào cái gì mà gọi là “phát”? Lành thay, Thế-Tôn! Xin Ngài vì tất cả mà giải-thuyết cho, để cho tất cả dứt bỏ được các màn lưới ngờ-vực, mà đạt tới nơi Bồ-đề!”

Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ: “Thiện-nam-tử! Trong các tâm-pháp khởi ra mọi tà-kiến; vì muốn dứt trừ sáu mươi hai kiến, cùng mọi thứ tà-kiến khác, nên Tôi nói tâm, tâm-sở-pháp là “không”; như thế, là các “kiến” kia không còn chỗ nương-tựa nữa. Ví như rừng-rú xanh-tốt kín-mít, sư-tử, voi trắng, hùm, beo, thú dữ… lẩn ở trong ấy nhả độc hại người, làm cho vắng-bặt dấu-vết người đi. Lúc đó, có bậc trí-giả đem lửa đốt rừng; vì rừng trống, các thú dữ không còn sót lại. “Tâm” không, “kiến” diệt, cũng như thế!” [4] 

Lại, thiện-nam-tử! Bởi nhân-duyên gì lập ra nghĩa “không” ấy? – Vì muốn diệt phiền-não từ vọng-tâm sinh ra mà nói là “không”. Thiện-nam-tử! Nếu chấp “không-lý” là cái “hữu” (có) cứu-cánh, thời ngay “không-tính” cũng không; chấp “không” thành bệnh, cũng nên trừ bỏ! Sao vậy? - Nếu chấp nghĩa “không” là cứu-cánh, các pháp đều không nhân, không quả, thời có khác gì với ngoại-đạo: Lộ-già-gia-đà (Thuận-thế ngoại-đạo)? Thiện-nam-tử! Như thuốc A-già-đà (bất-tử-dược) chữa khỏi các bệnh, nếu người có bệnh uống thuốc ấy quyết khỏi; bệnh đã khỏi rồi, thuốc cũng theo bệnh mà bỏ và nếu không có bệnh mà uống thuốc, thuốc trở lại thành bệnh. Thiện-nam-tử! Trước đặt ra thuốc “không” là để trừ bệnh “hữu” (có); chấp “hữu” thành bệnh, thời chấp “không” cũng thế. Ai là bậc trí-giả lại uống thuốc để mang bệnh? Thiện-nam-tử! Nếu khởi ra “hữu-kiến”, còn hơn khởi ra “không-kiến”; có thuốc “không” trị bệnh “hữu”, chứ không có thuốc nào trị bệnh “không” cả. [5] 

Thiện-nam-tử! Bởi nhân-duyên ấy, uống thuốc “không” trừ tà-kiến rồi, tâm tự giác-ngộ, phát ra bồ-đề, tâm giác-ngộ ấy tức là tâm bồ-đề, chứ không có hai tướng. Thiện-nam-tử! Tâm tự giác-ngộ có bốn nghĩa. Những gì là bốn? – Các phàm-phu có hai tâm, chư Phật, Bồ-tát có hai tâm. Thiện-nam-tử! Hành-tướng hai tâm của phàm-phu thế nào? - Một là, từ nhãn-thức cho đến ý-thức, nhân-duyên tự-cảnh là “tự-ngộ-tâm”. Hai là, lìa tâm, tâm-sở-pháp của năm căn, hòa-hợp duyên cảnh là “Tự-ngộ-tâm”. Thiện-nam-tử! Hai tâm như thế hay phát bồ-đề! Thiện nam-tử! Hành-tướng hai tâm của Thánh-hiền thế-nào? - Một là, quán chân-thực-lý-trí. Hai là, quán nhất-thiết-cảnh-trí. Thiện-nam-tử! Bốn nghĩa như thế là “tự-ngộ-tâm”. [6] 

Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Tâm không có hình-tướng cũng không có chỗ ở, người phàm-phu tu-hành khi tối-sơ phát-tâm, phải y vào những chỗ nào và quán những tướng gì?”

Đức Phật bảo: “Thiện-nam-tử! Chỗ quán tâm-tướng bồ-đề của phàm-phu, phải quán như là vành trăng tròn đầy trong sạch sáng-sủa đứng yên trên ngực. Nếu muốn mau được “bất-thoái-chuyển”, khi ở nơi A-lan-nhã và nhà không-tịch cần phải đoan-thân, chính-niệm, kết Kim-cương phọc-ấn của Như-Lai như trước, nhắm mắt quán-sát mặt trăng sáng giữa ngực và suy-nghĩ rằng: “Vành trăng tròn đầy này to lớn năm mươi do-tuần, sáng-sủa thanh-tịnh, trong, ngoài lắng suốt, không chút bụi nhơ và trong mát rất mực”. Mặt trăng tức là tâm, tâm tức là mặt trăng, vết trần không nhiễm thời vọng-tưởng không sinh, khiến cho thân-tâm chúng-sinh thanh-tịnh, tâm đại-bồ-đề bền-vững không thoái. Kết tay ấn ấy và trì-niệm quán-sát chương-cú (thần-chú) vi-diệu đại-bồ-đề-tâm, là “thanh-tịnh chân-ngôn” của hết thảy Bồ-tát khi tối-sơ phát-tâm: “Úm, bồ-địa, thất đa, mưu chí ba, đà gia, nhị”. Đà-ra-ni này đủ uy-đức lớn, khiến cho người tu-hành không bị thoái-chuyển. Hết thảy Bồ-tát trong quá-khứ, vị-lai, hiện-tại khi tại nhân-địa phát sơ-tâm, đều chuyên trì-niệm chân-ngôn này, mà vào được nơi bất-thoái và mau viên-thành chính-giác. [7] 

Thiện-nam-tử! Khi người tu-hành kia đoan-tâm chính-niệm, đều không rung-động gì cả, chỉ để tâm vào vành trăng, quán-sát thành-thục, thế gọi là “Bồ-tát quán bồ-đề tâm thành Phật tam-muội”. Nếu có phàm-phu tu được quán ấy, trước kia gây ra năm tội nghịch, bốn tội trọng (sát, đạo, dâm, vọng), thập-ác và bất-tín, các tội ấy đều tiêu-diệt hết và liền được năm thứ Tam-ma-địa-môn. Những gì là năm? - Một là, Sát-na tam-muội. Hai là, Vi-trần tam muội. Ba là, Bạch-lũ tam-muội. Bốn là, Khởi-phục tam-muội. Năm là, An-trụ tam-muội. Thế nào gọi là Sát-na tam-muội? – Nghĩa là chỉ tạm thời an-trụ tưởng-niệm vào mặt trăng tròn đầy mà thôi, ví như con khỉ, thân bị buộc, xa không đi được, gần không dừng được, nhưng chỉ khi đói khát quá, nó mới dừng nghỉ được chốc lát mà thôi. Phàm-phu quán tâm cũng như thế mới được tam-muội (chính-định) trong tạm thời chốc lát, nên gọi là “sát-na”. Thế nào gọi là Vi-trần tam-muội? – Nghĩa là đối với tam-muội đã tương-ứng được ít phần, ví như có người tự mình thường ăn đồ đắng, chưa từng được ăn đồ ngọt bao giờ, trong một thời kia được nếm một chút mật vào lưỡi, người ấy vui-mừng quá, càng sinh hăng-hái mong cầu được nhiều mật. Người tu-hành ấy, qua nhiều kiếp ăn những vị đắng mà nay cho được vị tam-muội (chính-định) ngon-ngọt, đã tương-ứng được ít phần nên gọi là “vi-trần” (bụi nhỏ). Thế nào gọi là Bạch-lũ tam-muội? – Nghĩa là, người phàm-phu từ thời vô-thủy cho đến hết thuở vị-lai, nay được định này, ví như nhuộm vải đen, trong nhiều màu đen thấy được một sợi tơ trắng (bạch-lũ). Người tu-hành ấy, ở trong nhiều đêm sinh-tử tăm tối, nay mới được tam-muội (chính-định) bạch-tịnh (trong-trắng), nên gọi đấy là “bạch-lũ”. Thế nào gọi là Khởi-phục tam-muội? – Nghĩa là, người tu-hành quán tâm chưa thành-thục, hoặc khéo thành-lập hay chưa khéo thành-lập, tam-muội (chính-định) như thế còn là cao, thấp nên gọi là “khởi-phục” (nhô lên, giẹp xuống). Thế nào gọi là An-trụ tam-muội? –Nghĩa là tu bốn định trước, tâm được an-trụ và khéo giữ-gìn được, không nhiễm vào các trần, như người trong mùa hè đi qua cõi sa-mạc xa-xăm, chịu đủ mọi sự tai-độc, tâm khát thiếu quá, hầu như không chịu nổi được nữa, bỗng gặp được dòng nước ngọt của núi Tuyết, như vị tô-đà [8] cõi thiên, mau khỏi được nhiệt-não, thân-tâm được thư-thái, nên định ấy gọi là “an-trụ”. Nhập định ấy rồi, xa-lìa hoặc-chướng, nẩy mầm vô-thượng bồ-đề, chóng lên công-đức Thập-địa của Bồ-tát.

Bấy giờ, trong pháp-hội, vô-lượng Nhân, Thiên được nghe Đại-đà-ra-ni sâu rộng không thể nghĩ bàn này, là mẹ đẻ của Bồ-tát, thời chín vạn tám nghìn Bồ-tát chứng được Hoan-hỷ-địa, vô-lượng chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [9] 
 

TOÁT-YẾU
XI.- PHẨM PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM

Khi đức Thế-Tôn nói về diệu-môn “Quán-tâm” rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Nay tôi sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm đại-đà-ra-ni” để các chúng-sinh phát-tâm vô-thượng, chóng viên-mãn diệu-quả!”.

Đại-bồ-tát Văn-thù bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Thế-Tôn đã nói tâm-pháp trong ba đời, bản-tính đều không, vậy tâm bồ-đề kia, lấy cái gì gọi là “phát”? Kính xin Thế-Tôn giải-thuyết cho?”

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Tâm-pháp khởi ra tà-kiến, vì muốn trừ các tà-kiến nên Tôi nói “tâm, tâm-sở-pháp” là “không”. Vì muốn diệt phiền-não từ vọng-tâm sinh ra, nên Tôi nói là “không”. Rồi đến cái “không” cũng trừ bỏ, vì đặt ra “không” để trừ “hữu” (có), chấp “hữu” thành bệnh thời chấp không cũng thế. Bởi vậy, uống thuốc “không”, trừ tà-kiến rồi, tâm tự giác-ngộ phát ra bồ-đề, tâm giác-ngộ ấy tức là bồ-đề. Tâm tự giác-ngộ có 4: phàm-phu 2 tâm, Phật, Bồ-tát 2 tâm.”

Đại-bồ-tát Văn-thù lại bạch: “Bạch đức Thế-Tôn!

Tâm không có hình-tướng, trụ-xứ, vậy lúc tối-sơ phát tâm người phàm-phu tu-hành phải y vào đâu và quán tướng gì?”

Đức Phật bảo: “Chỗ quán tâm-tướng của phàm-phu phải quán như là vành trăng tròn đầy, trong sạch, sáng sủa đứng yên trên ngực. Mặt trăng là tâm, tâm là mặt trăng; vết trần không nhiễm, thời vọng-tâm không sinh, khiến thân tâm được thanh-tịnh, tâm đại-bồ-đề kiên-cố. Người tu-hành như pháp quán-niệm, diệt được nhiều tội xưa và được 5 hạng Tam-ma-địa-môn: 1/ Sát-na tam-muội. 2/ Vi-trần tam-muội. 3/ Bạch-lũ tam-muội. 4/ Khởi-phục tam-muội. 5/ An-trụ tam-muội.”

Đức Phật nói pháp ấy rồi, trong pháp-hội 98.000 Bồ-tát chứng Hoan-hỷ-địa, vô-lượng chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
 

 [1] Phát Bồ-đề-tâm: “Bồ-đề” là “giác-đạo”, là đạo chính-chân vô-thượng. Người phát tâm cầu đạo chính-chân vô-thượng ấy là “Phát Bồ-đề-tâm”.

 [2] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “hữu-tình”, nói về đức Phật hiển-thị Phật-thân, giáo-hóa hàng Thập-địa Bồ-tát: 1/ Hàng Thập-địa tu tiến đã cao, không lâu sẽ chứng-ngộ Phật-quả, đức Phật đội mũ báu quán-đỉnh (quán-đỉnh bảo-quan), biểu-hiện các Bồ-tát sẽ thành vô-thượng-giác được thân-tướng trang-nghiêm, như Thái-Tử khi lên ngôi vua được làm phép Quán-đỉnh. Và, sau khi chứng-ngộ, được an-trụ tại nơi thanh-tịnh trang-nghiêm, vượt ngoài 3 cõi. 2/ Hàng Thập-địa Bồ-tát do sự tu-tiến sẽ được đầy-đủ các công-đức về Đà-ra-ni-môn, Tam-muội-môn…, để diệt-trừ các ngu-chướng vi-tế, thành sự-nghiệp tự, tha lưỡng lợi rộng lớn. 3/ Phật-thân đầy-đủ phúc-đức, trí-tuệ. Phần trí-tuệ hoàn-toàn cả căn-bản-trí và hậu-đắc-trí (Nhất-thiết trí-trí, Nhất-thiết chủng-trí), soi thấu hết thảy, hiểu biết cùng-tận nghiệp-tính chúng-sinh, tùy căn-cơ chúng-sinh, đem lợi-ích cho họ. Thập-địa Bồ-tát chứng được Phật-trí cũng như vậy.

 [3] Đoạn trên, từ chữ “Khi”, tới chữ “quả”, đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù là Ngài sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm”.

 [4] Đoạn trên, từ chỗ “Lúc đó”, tới chỗ “như thế”, Bồ-tát Văn-thù hỏi Vặn Phật về tâm đã không còn, lấy đâu mà phát? Đức Phật dạy: sở-dĩ cho tâm-pháp là không, là vì muốn diệt-trừ những kiến-chấp, như rừng trống, thú dữ sẽ không còn.

 [5] Đoạn trên, từ chữ “Lại”, đến chữ “cả”, đức Phật phá “chấp không”, vì “chấp không” vẫn còn là chấp và, “chấp không” còn nặng hơn “chấp có”, vì không có thuốc nào chữa được bệnh “không” cả.

 [6] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử” đến chỗ “tự-ngộ-tâm”, nói: bỏ chấp không, trừ tà-kiến, đạt nghĩa “bất không”, là tâm tự-giác-ngộ, tức là “phát bồ-đề” và tức là “tâm bồ-đề”. Tâm tự giác-ngộ chia làm 2 hạng: phàm và Thánh. A.- Hạng phàm: 1/ Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý-thức khi liên-lạc với tự-cảnh-giới hiện tiền, vẫn giữ y-nguyên thanh-tịnh, không phân-biệt, chấp-trước, đó là tự-giác-ngộ-tâm. 2/ Trong khi nhập-định, Ý-thức xa-lìa cả 5 căn, cảnh, chỉ chuyên liên-lạc với cảnh-giới hiện-tiền trong định, đó là tự-giác-ngộ-tâm. B.- Hiền-thánh: “Hiền” là chỉ vào các hàng Bồ-tát: Thập trụ, Thập-hạnh, Thập-hướng và Gia-hạnh. “Thánh” là chỉ vào các Bồ-tát Thập-địa. Bậc Hiền-thánh tự-giác-ngộ-tâm do: 1/ Dùng trí-tuệ quán chân-thực-lý, tức là quán về “như-lý-trí” (thực-trí), nghĩa là dùng chân-trí quán thấu lý-tính chân-thực của các pháp. 2/ Dùng trí-tuệ quán nhất-thiết-cảnh-trí, tức là quán về “như-lượng-trí”, nghĩa là đem tục-trí, quán thông vào sự-tướng của các pháp.

 [7] Đoạn trên, từ chỗ ‘Lúc đó”, đến chỗ “chính-giác”, Bồ-tát Văn-thù hỏi Phật về người mới phát tâm tu-hành nên y vào đâu và quán gì? Đức Phật dạy: nên kết-ấn Kim-cương-phọc, đọc chú Thanh-tịnh và quán mặt trăng ngay giữa ngực. Vì, mặt trăng tức là tâm. Các Bồ-tát trong 3 đời đều quán như thế.

 [8] Tô-đà: Một món ăn ngon và có ý-vị khác thường. Bộ Pháp-uyển châu-lâm viết: “Chư thiên cõi Dạ-ma thường dùng chén ngọc uống rượu, ăn món ăn Tô-đà, sắc, xúc, hương, vị đều đầy-đủ.

 [9] Đoạn trên, từ chỗ “Thiện-nam-tử! Khi người tu-hành”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói về người quán được tâm như thế sẽ được năm thứ định, diệt-trừ được hoặc-chướng và nẩy mầm Bồ-đề. Tới đây, đại-chúng nghe Phật nói về pháp-môn này, đều được hưởng phần lợi-ích.
 
IX.- PHẨM CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM [1] 


Bấy giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói ở nơi A-lan-nhã, công-đức thành-tựu sẽ được thành Phật, vậy Bồ-tát làm sao và tu các công-đức gì mà có thể ở trong nơi A-lan-nhã này được? Kính xin đức Thế-Tôn vì tôi mà giải-thuyết cho”.

Lúc đó, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Các ông, thiện-nam-tử! Cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở nơi A-lan-nhã, cầu vô-thượng-đạo được. Một đức ấy là gì? Là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não, tức là tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi theo người. Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhã, người mới phát tâm cũng như thế. Nếu thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tâm người ấy nhiễm-trước, là người ấy không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của năm cảnh [2] từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể ở nơi A-lan-nhã được bằng cách toàn-thiện. Bởi nhân-duyên ấy, hết thảy Đại-bồ-tát thích ở nơi tịch-tĩnh, cầu vô thượng-đạo. Nếu khi cảnh ngũ-dục hiện ra trước mắt, nên quán-sát tự tâm và nên nghĩ thế này: “Ta từ đời vô-thủy đến ngày nay, luân-hồi trong sáu thú, không có kỳ nào ra được là đều tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo, đối với cảnh ngũ-dục, tham-ái nhiễm-trước”. Bồ-tát như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi A-lan-nhã. Nếu có người hỏi: “Chúng-sinh nào ở đời mai sau sẽ được thành Phật? Nên chỉ người ấy trong đời mai sau, thoát khỏi khổ trong ba cõi, phá bốn ma-quân [3] chóng thành Bồ-đề, chứng-nhập trí-tuệ Phật, hết thảy thế-gian: Thiên, long tám bộ…, đều nên cúng-dàng! Nếu thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhân nào lấy tâm thanh-tịnh cúng-dàng vị chân-Phật-tử ở nơi A-lan-nhã như thế, được vô-lượng vô-biên phúc-đức. Như có người đem mọi thứ trân bảo cúng-dàng bi-mẫu được công-đức thế nào, thời công-đức kia cũng như thế không khác. Sao vậy? Người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, quay xe chính-pháp, độ Nhân, Thiên-chúng, nối Tam-bảo-chủng khiến không đoạn-tuyệt và sẽ là chỗ quy-y cho chúng-sinh. [4] 

Lại nữa, thiện-nam-tử! Có hai pháp ràng-buộc người tu hành, làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một là, yêu thích đoạn-kiến tà-pháp. Hai là, yêu thích của báu, đồ vui.

Lại, thiện-nam-tử! Có hai hạng người không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một là, hạng người đầy dẫy sự kiêu mạn. Hai là, hạng người ghét giáo-pháp Đại-thừa.

Lại, thiện-nam-tử! Có hai hạng người không nên ở nơi A-lan-nhã: Một là, hạng người tà-kiến, không tin lời Phật. Hai là, hạng người tự thân phá-giới, sách-dịch trì-giới. Những người như thế, không nên ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. [5] 

Lại nữa, thiện-nam-tử! Người đủ bốn đức cần nên an trụ nơi A-lan-nhã. Những gì là bốn? Một là, danh-văn (nghe giỏi): tóm giữ điều nghe được không quên. Hai là, phân-minh: hiểu biết rành-rẽ nghĩa vi-diệu. Ba là, chính-niệm: luôn luôn không phóng-dật. Bốn là, tùy-thuận: như giáo-lý mà thực-hành. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn thắng-đức như thế, cần nên an-trụ nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát, cầu đạo vô-thượng.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, trang-nghiêm tự-thân, ở A-lan-nhã, cầu trí tuệ Phật. Những gì là bốn? Một là, đại-từ. Hai là, đại-bi. Ba là, đại-hỷ. Bốn là, đại-xả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, sinh ra hết thảy phúc-đức, trí-tuệ, đem lại lợi-ích an-vui cho vô-lượng chúng-sinh, chóng chứng pháp Đại-bồ-đề vô-thượng.

Lại nữa, bồ-tát xuất-gia lại có bốn đức, giữ giới thanh-tịnh, đạt đến Bồ-đề. Những gì là bốn? Một là, thường trụ trong bốn vô-cấu-tính. Hai là, thường làm mười hai hạnh Đầu-đà. Ba là, xa lìa tại-gia xuất-gia. Bốn là, bỏ hẳn lừa, nịnh, ghen-ghét. Thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát y vào bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh-tử, được Đại-bồ-đề. [6] 

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp tóm thâu hết thảy thiện. Những gì là bốn? Một là, giữ giới cấm thanh-tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là, nhập các chính-định, đầy-đủ các trí-tuệ. Ba là, được sáu phép thần-thông, tu cả chủng-trí. Bốn là, phương-tiện thiện-sảo, lại không phóng-dật. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, các Bồ-tát trong ba đời cùng tu học, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ chóng chứng được đạo Bồ-đề rộng lớn vô-thượng.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia đủ bốn pháp, đối với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Những gì là bốn? Một là, bố thí. Hai là, ái-ngữ. Ba là, lợi-hành. Bốn là, đồng sự. Thiện-nam-tử! Bốn hạnh như thế, là con đường đi tới Bồ-đề, là căn-bản lợi-sinh, hết thảy Bồ-tát đều nên tu học.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại đủ bốn đức ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân. Những gì là bốn? Một là, quán-sát tự-thân không có bản-tính, để dẹp dứt hai chấp (ngã, pháp) chứng lý vô-ngã. Hai là, quán-sát tha-thân cũng không có bản-tính, để đối với kẻ oán, thân, lìa bỏ được sự yêu, ghét. Ba là, thân tâm khoái-lạc, để tâm và tâm sở-pháp không còn phân-biệt. Bốn là, được bình-đẳng-trí, để sinh-tử và Niết-bàn không có sự sai khác. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát nên tu-tập, Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ đi tới đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát lại có bốn nguyện làm cho chúng-sinh được thành-thục và giữ-gìn ngôi Tam-bảo trải qua đại-kiếp-hải quyết không thoái-chuyển. Những gì là bốn? - Một là, thề độ hết thảy chúng-sinh. Hai là, thề đoạn hết thảy phiền-não. Ba là, thề học hết thảy pháp-môn. Bốn là, thề chứng hết thảy Phật-quả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, Bồ-tát lớn, nhỏ đều nên học tập, vì nó là chỗ học của Bồ-tát trong ba đời!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh. Những gì là bốn? - Một là, yêu-thích “không-tính”, vì “không-lý” hiển-lộ. Hai là, được sự không sợ hãi, vì chứng được chính-định. Ba là, đối với các chúng-sinh khởi ra bi-nguyện lớn. Bốn là, đối với hai thứ vô-ngã [7] , không có tâm chán-ngán. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế là cửa quan-yếu của hết thảy Bồ-tát chứng-nhập Thánh-quả, vì y vào bốn pháp ấy dứt bỏ được hai chướng!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có bốn pháp, ở nơi A-lan-nhã, khéo giữ giới cấm, trang-nghiêm tự thân. Những gì là bốn? - Một là, bỏ hẳn ngã-kiến. Hai là, bỏ ngã-sở-kiến. Ba là, lìa đoạn, thường-kiến. Bốn là, hiểu-biết sâu rộng về mười hai nhân-duyên. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, trừ được sự hủy-phạm giới cấm, giữ-gìn tịnh-giới, trang-nghiêm tự thân.

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại quán bốn pháp, giữ được giới cấm, tu thêm diệu-hạnh, cầu đạt Phật-trí. Những gì là bốn? - Một là, quán-sát năm uẩn sinh-diệt. Hai là, quán-sát mười hai nhân-duyên như làng xóm trống. Ba là, quán-sát mười tám giới tính đồng pháp-giới. Bốn là, đối với pháp tục-đế [8] không bỏ, không ham. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát nên tu học và vì thế Phật-tử ở nơi A-lan-nhã nên một lòng tu-tập, cầu đạo vô-thượng!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ bốn pháp trì-giới thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân. Những gì là bốn? - Một là, thành-tựu quán “bất kiến-thân”. Hai là, thành-tựu quán “bất kiến-ngữ”. Ba là, thành-tựu quán “bất kiến-ý”. Bốn là, xa-lìa sáu mươi hai kiến, thành-tựu quán “nhất-thiết-trí” [9] . Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn pháp thanh-tịnh như thế, hiện-thân chứng được “chính-tính ly-sinh” [10] , cho đến chóng chứng được vô-thượng Bồ-đề. Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử các ông quán bốn pháp-môn như thế, dứt bốn ác-đạo, chứng bốn bậc Niết-bàn, hết thuở vị-lai, độ các chúng-sinh, khiến chứng được đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác! [11] 

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ tám pháp Tam-muội thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì là tám? - Một là, ngồi một mình ở nơi A-lan-nhã, Tam-muội thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa lời nói thêu-dệt, Tam-muội thanh-tịnh. Ba là, xa-lìa năm dục, Tam-muội thanh-tịnh. Bốn là, điều-phục thân-tâm, Tam-muội thanh-tịnh. Năm là, ăn uống tri-túc, Tam-muội thanh-tịnh. Sáu là, xa-lìa ác-cầu, Tam-muội thanh-tịnh. Bảy là, xa-lìa sự nhân nghe giọng tiếng khởi ra tham-ái, Tam-muội thanh-tịnh. Tám là, vì chúng nói pháp không cầu lợi-dưỡng, Tam-muội thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Cần nên tu-tập sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
 

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại có tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh. Những gì là tám? - Một là, năm uẩn thiện-sảo [12] , trí-tuệ thanh-tịnh. Hai là, mười hai xứ thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Ba là, mười tám giới thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Bốn là, hai mươi hai căn [13] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Năm là, ba giải-thoát-môn thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Sáu là, hay diệt hết thảy phiền-não thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Bảy là, hay diệt tùy phiền-não [14] thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Tám là, hay diệt sáu mươi hai kiến thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông nên cần tu-tập, sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở nơi A-lan-nhã, lại có tám thứ thần-thông thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì là tám? - Một là, đối với mọi sắc-pháp [15] không bị chướng-ngại, được Thiên-nhãn thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhãn-thông). Hai là, đối với cảnh thanh-trần (tiếng), không bị chướng-ngại, được Thiên-nhĩ thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thiên-nhĩ-thông). Ba là, đối với các tâm, tâm-sở-pháp của chúng-sinh không bị chướng-ngại, được Tha-tâm-trí thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Tha-tâm-thông). Bốn là, ghi nhớ nơi sinh, nơi chết trong quá-khứ không bị chướng-ngại, được Túc-trụ-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh (Túc-mệnh-thông). Năm là, đi khắp vô-số cõi Phật trong mười phương không bị chướng-ngại, được Thần-cảnh-trí thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh (Thần-túc-thông). Sáu là, biết được lậu-nghiệp của chúng-sinh hết hay chưa hết không bị chướng-ngại, được Lậu-tận-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh (Lậu-tận-thông). Bảy là, diệt được hết thảy phiền-não không bị chướng-ngại, được Vô-lậu-trí thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Tám là, hiện thấy hết thảy thiện-căn nơi tự-thân hồi-hướng chúng-sinh thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ thần-thông thanh-tịnh như thế, các Bồ-tát trong mười phương đồng tu học, Bồ-tát các ông cũng nên tu-tập, sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, hiện thân được tám thứ thanh-tịnh. Những gì là tám? Một là, thân-nghiệp thanh-tịnh. Hai là, ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Ba là, ý-nghiệp thanh-tịnh. Bốn là, chính-tính [16] thanh-tịnh. Năm là, chính-niệm thanh-tịnh. Sáu là, Đầu-đà thanh-tịnh. Bảy là, lìa xiểm-nịnh thanh-tịnh. Tám là, một niệm không quên tâm Bồ-đề thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ tám thứ thanh-tịnh như thế, hiện-thân thành-tựu vô-biên thiện-căn, không bị thoái-chuyển đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!

Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có tám thứ: Đa-văn (nghe, học nhiều) thanh-tịnh, trang-nghiêm tự thân. Những gì là tám? - Một là, tôn-kính Hòa-thượng, A-xà-lê, đa-văn thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa kiêu-mạn, sinh tâm nhún-nhường, đa-văn thanh-tịnh. Ba là, tinh-tiến dũng-mãnh, đa-văn thanh-tịnh. Bốn là, an-trụ chính-niệm, đa-văn thanh-tịnh. Năm là, vì người cầu pháp, nói nghĩa sâu rộng, đa-văn thanh-tịnh. Sáu là, không ưa bảo-hộ mình, chê người, đa-văn thanh-tịnh. Bảy là, thường hay quán-sát hết thảy thiện-pháp, đa-văn thanh-tịnh. Tám là, lắng nghe chính-pháp, y như chỗ nói mà tu-hành, đa-văn thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ đa-văn thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông đều nên tu-tập, sẽ chóng chứng được Vô-thượng chính đẳng Bồ-đề! [17] 

Khi đức Thế-Tôn nói những hạnh Bồ-tát như thế rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Sau khi Tôi nhập Niết-bàn chừng năm trăm năm lúc chính-pháp sắp diệt, vô-lượng chúng-sinh chán, bỏ thế-gian, khát-ngưỡng Như-Lai, phát-tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác vào nơi A-lan-nhã, vì đạo vô-thượng, tu-tập những hạnh-nguyện Bồ-tát như thế, đối với đạo Đại-bồ-đề được bất-thoái-chuyển. Vô-lượng chúng-sinh phát tâm như thế, khi mệnh-chung được sinh lên cung trời Đâu-suất, được thấy thân ông (Di-Lặc Bồ-tát) vô-biên phúc-trí trang-nghiêm, siêu-việt sinh-tử, chứng Bất-thoái-chuyển. Và, ở đời mai sau ngồi dưới cây Bồ-đề Đại-bảo long-hoa được vô-thượng chính-đẳng chính-giác.

Trong lúc đức Thế-Tôn nói pháp ấy, hai vạn năm nghìn vị Bồ-tát mới phát tâm, đối với hạnh Bồ-đề sắp bị thoái-chuyển, nghe được pháp như thế, phát tâm kiên-cố, qua ngôi Thập-tín đến ngôi thứ sáu trong Thập-trụ. Ba vạn tám nghìn Bà-la-môn tịnh-hạnh dứt hẳn tà-kiến, được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni. Bảy vạn sáu nghìn người đều phát tâm vô đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác. [18] 
 

TOÁT-YẾU
IX.- PHẨM CÔNG-ĐỨC TRANG-NGHIÊM

Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Bồ-tát tu công-đức gì mới có thể ở trong A-lan-nhã được?”

Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Chỉ cần tu một pháp là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự-tâm”, là ở được nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. Nếu ai không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của 5 cảnh từ tự-tâm sinh, còn nhiễm-trước vào 6 trần, chưa thể ở A-lan-nhã được. Đại-bồ-tát ở nơi tịch-tĩnh thấy cảnh ngũ-dục nên quán tự-tâm và nghĩ: “Từ trước tới nay bị luân-hồi lục-đạo đều do tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo, tham-nhiễm ngũ-dục”. Bồ-tát như thế là người ở được nơi A-lan-nhã, sau sẽ thành Phật và ai cúng-dàng vị ấy được phúc-đức vô-lượng”.

Có những hạng người không ở nơi A-lan-nhã được: hạng người thích đoạn-kiến, thích của báu, đồ vui, kiêu-mạn, ghét giáo-pháp Đại-thừa, ưa tà-kiến, không tin Phật, tự phá giới sai trì giới.

Những người ở nơi A-lan-nhã có những đức sau đây: Đầy đủ danh-văn (nghe giỏi), hiểu biết phân-minh, chính-niệm, tùy thuận. Có từ, bi, hỷ, xả. Thường trụ trong 4 vô-cấu-tính, thường làm 12 hạnh Đầu-đà, xa lìa tại-gia xuất-gia, bỏ hẳn lừa, nịnh, ghen ghét. Giữ giới nghe nhiều, nhập chính-định, đủ trí-tuệ, được lục thông, tu chủng-trí, đủ phương-tiện, không phóng-dật. Đủ bố-thí, ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự. Quán tự thân không bản-tính, quán tha-thân không bản-tính, thân-tâm khoái-lạc, được bình-đẳng-trí. Đoạn phiền-não, độ chúng-sinh, học pháp-môn, chứng Phật-quả. Thích không-tính, được vô-úy, khởi bi-nguyện, không chán hai thứ vô-ngã. Bỏ ngã-kiến, biết rộng 12 nhân-duyên. Quán 5 uẩn sinh diệt, quán 12 nhân-duyên như làng trống, quán 18 giới tính đồng pháp-giới, tục-đế-pháp không bỏ không ham. Thành-tựu: quán bất-kiến-thân, bất-kiến-ngữ, bất-kiến-ý và nhất-thiết-trí. (Phật-tử thành-tựu 4 pháp thanh-tịnh ấy, hiện-thân chứng được “chính-tính ly sinh”. Chóng thành vô-thượng-giác).

Đầy đủ 8 pháp tam-muội thanh-tịnh, 8 pháp trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh; hiện-thân được 8 thứ thanh-tịnh. Và, Bồ-tát lại có 8 thứ đa-văn thanh-tịnh, trang-nghiêm tự-thân.

Đức Phật lại bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Sau khi Tôi nhập-diệt chừng 500 năm có nhiều chúng-sinh phát tâm vô-thượng vào nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát được bất-thoái-chuyển. Nhiều chúng-sinh như thế, mệnh-chung sinh lên Đâu-suất, được gặp ông (Di-Lặc) chứng bất-thoái-chuyển và sau sẽ thành Phật”.

Khi nghe đức Phật nói Pháp ấy xong, 15.000 Bồ-tát phát tâm kiên-cố, qua Thập-tín đến ngôi thứ 6 trong Thập-trụ, 38.000 Bà-la-môn được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni, 76.000 người phát tâm vô-thượng-giác.

 

 [1] Công-đức trang-nghiêm: “Công” là công-năng trong việc lợi-ích, phúc-đức; công-năng ấy là đức của thiện-hạnh, nên gọi là “công-đức”. “Đức” còn có nghĩa là được, do công tu mà được, gọi là “Công-đức”. “Trang-nghiêm” có nghĩa là đem những cái hay, cái đẹp, tô-điểm cho đất nước huy-hoàng, hoặc đem những công-đức tô-điểm cho thân-thể nghiêm-trang, đẹp-đẽ. Nơi đây, các Bồ-tát đem công-đức tu được, tô-điểm cho tự-thân, quốc-giới, chúng-sinh được tốt đẹp.

 [2] Năm cảnh: Tức sắc, thanh, hương, vị và xúc.

 [3] Bốn ma-quân: 1/ Phiền-não-ma: tham, sân, si…, làm não-hại thân-tâm nên gọi là ma. 2/ Ngũ-ấm-ma: 5 thứ: sắc, thụ, tưởng, hành, thức hay sinh ra mọi khổ-não nên gọi là ma. 3/ Tử-ma: sự chết hay dứt thân-mệnh người ta, nên gọi là ma. 4/ Thiên-ma: cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên hay làm hại việc thiện của người nên gọi là thiên-ma (ma nơi cõi trời).

 [4] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ”, đến chỗ “chúng-sinh”, Bồ-tát Di-Lặc hỏi về công-đức tu của Bồ-tát, đức Phật thuyết-minh về một đức mà các Bồ-tát cần tu, đó là đức “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự tâm”. Nghĩa là, tâm thanh-tịnh không nhiễm. Người được thế là chân-Phật-tử, nên cúng-dàng.

 [5] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa”, đến chỗ “vô-thượng”, đức Phật thuyết-minh về hai lỗi mà người ở Lan-nhã cần xa tránh, như những người cho không có nhân-quả, chỉ một đời là hết v.v…

 [6] Chỗ này còn một đoạn: “Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia lại có 4 pháp khỏi hẳn sinh-tử được đại-bồ-đề”.- Vì không có những câu sau nữa, sợ lầm, nên không để trên chính-văn, mà ghi đây để tồn cổ (lời dịch-giả)

 [7] Hai thứ vô-ngã: 1/ Nhân-vô-ngã: Cái ta tự-thể, tự-chủ là “ngã”. Người ta không hiểu thấu nghĩa 5 uẩn giả-hợp, cố chấp thân-thể con người là thực, có tự-chủ, tự-tại gọi là “nhân-ngã”. Nay hiểu rõ nghĩa 5 uẩn giả-hợp, thấu suốt đến chỗ thực không có thực-thể của con người là “Nhân-vô-ngã”. Đó là sự quán đạo của Tiểu-thừa để dứt phiền-não-chướng, chứng Niết-bàn vậy. 2/ Pháp vô-ngã: Cố chấp các pháp (sự vật) có thực-thể, thực-dụng là “pháp-ngã”. Nay hiểu rõ các pháp do nhân-duyên-sinh, thấu suốt đến chỗ thực không có tự-tính là “Pháp-vô-ngã”. Đó là quán-đạo của Đại-thừa Bồ-tát, để dứt sở-tri-chướng, mà được Bồ-đề vậy. Tiểu-thừa chỉ ngộ có “nhân-vô-ngã”, nhưng Bồ-tát ngộ cả 2 thứ vô-ngã.

 [8] Tục-đế: Thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn gọi là “Thế-đế”. Trái với Tục-đế là “Chân-đế”. Chân-đế là thực-nghĩa của chân-lý. Là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhân thấy. Còn gọi là “Thắng-nghĩa-đế”.

 [9] 4 pháp trên là quán về thân, khẩu, ý và 62 kiến. Quán thân như-huyễn, không khởi ra sự chấp-trước về thân-kiến. Quán ngôn-ngữ tính không, không khởi ra 4 sự bất thiện về nghiệp khẩu. Quán ý, tức tâm, tâm sở đều do duyên-khởi, không có tự-tính, tức không khởi ra sự phân-biệt. Quán 62 kiến, bỏ hết thảy tà-kiến.

 [10] Chính-tính ly-sinh: Còn gọi là “Thánh-tính ly-sinh”. Sinh vô-lậu-trí dứt trừ phiền-não, nên gọi là “Thánh-tính”. Thanh-văn, Duyên-giác vào ngôi Kiến-đạo, sinh được một phần trí-tuệ vô-lậu, dứt phiền-não-chướng; Bồ-tát sinh một phần trí-tuệ vô-lậu, dứt trừ cả hai chướng: phiền-não và sở-tri, nhân đó mà được một phần Thánh-tính, xa lìa hẳn sự sinh-khởi của dị-tính (phàm-phu), nên gọi là “Thánh-tính ly-sinh”. Chữ “Thánh” có nghĩa là “chính”, nên “Thánh-tính ly-sinh” tức là “chính-tính ly-sinh”.

 [11] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa thiện-nam-tử! Người đủ 4 đức…”, đến chỗ “chính-giác”, đức Phật thuyết-minh về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã cần có 11 loại thuộc về 4 đức.

 [12] Thiện-sảo: Có nghĩa là tốt lành, hay đẹp, khéo-léo, nhiệm-mầu.

 [13] 22 căn: 1/ Nhãn-căn (Caksurindriya): mắt. 2/ Nhĩ-căn (Srotrendriya): tai. 3/ Tỵ-căn (Ghrànend-riya): mũi. 4/ Thiệt-căn (Jihvendriya): lưỡi. 5/ Thân-căn (Kày-endriya): thân-thể. 6/ Ý-căn (Manendriya). (Trở lên thường gọi là 6 căn). 7/ Nữ-căn (Strindriya): bộ sinh-dục của đàn bà. 8/ Nam-căn (Purusendriya): bộ sinh-dục của đàn ông. 9/ Mệnh-căn (Jivitendriya): thọ-mệnh của chúng-sinh. 10/ Khổ-căn (Duhkhendriya): đau khổ. 11/ Lạc-căn (Suk-hendriya): vui sướng. 12/ Ưu-căn (Daumanasyendriya): lo-lắng. 13/ Hỷ-căn (Saumanasyendriya): vui mừng. 14/ Xả-căn (Upekendriya): không vui không buồn. (Trở lên 5 căn thuộc về sự hưởng-thụ, thường gọi là 5 thụ). 15/ Tín-căn (Sraddhendriya): tin thực. 16/ Tinh-tiến-căn (Viryen-driya): gắng tiến. 17/ Niệm-căn (Smrrtindriya): nhớ nghĩ. 18/ Định-căn (Samàdhindriya): an-định. 19/ Tuệ-căn (Pra-jnedriya): hiểu biết. (Trở lên là ngũ-căn). 20/ Vị-tri-đương-tri-căn (Anàjnàtamàsyàmindriya): người tu 9 căn: ý, lạc, hỷ, xả, tín, tiến, niệm, định, tuệ trong Kiến-đạo, muốn biết lý Tứ-đế chưa từng biết, mà phát-khởi ra hành-động. 21/ Dĩ-tri-căn (Àjnendriya): người tu 9 căn kia trong Tu-đạo tuy đã biết rõ lý Tứ-đế rồi nhưng, lại vì dứt các phiền-não khác, nên đối với cảnh Tứ-đế thường thường phải hiểu biết. 22/ Cụ-tri-căn (Àjnàtàvindriya): người tu 9 căn kia ở trong vô-học-đạo đã biết trong sự biết rõ lý Tứ-đế, tức là đã có đầy-đủ về sự biết ấy. (Trở lên là 3 căn vô-lậu-căn).

 [14] Tùy-phiền-não: Những phiền-não tùy thuộc vào căn-bản phiền-não. Căn-bản phiền-não có 6 là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác-kiến, (ác-kiến có 5: thân-kiến, biên-kiến, tà-kiến, kiến-thủ, giới-cấm-thủ). Tùy phiền-não có 20: 10 tiểu-tùy: phẫn, hận, phú, não, tật, khan, cuống, xiểm, hại, kiêu; 2 trung tùy: vô tàm, vô quý và 8 đại-tùy: điệu-cử, hôn-trầm, bất-tín, giải-đãi, phóng-dật, thất-niệm, tán-loạn, bất-chính-tri.

 [15] Sắc-pháp: Chỉ cho những pháp (sự-vật) thuộc ảnh-tướng, có đối-đãi, có hình-chất chướng-ngại. Duy-thức-học cho: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc và một phần pháp-trần thuộc về sắc-pháp.

 [16] Chính-tính: Cũng gọi là Thánh-tính. Chủng-tử của vô-lậu-trí là “Thánh-tính”; xa lìa phiền-não là “Chính-tính”.

 [17] Đoạn trên, từ chỗ “Lại nữa, thiện-nam-tử…đầy-đủ 8 pháp”, đến chỗ “chính-đẳng Bồ-đề”, đức Phật thuyết-minh về Bồ-tát ở nơi Lan-nhã có 8 pháp Tam-muội thanh-tịnh, 8 thứ trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh, 8 thứ thanh-tịnh nơi hiện thân và 8 thứ đa-văn thanh-tịnh. Được những 8 đức ấy sẽ chóng chứng vô-thượng-giác.

 [18] Đoạn trên, từ chữ “Khi” đến chỗ “chính-giác”, đức Phật nói sau này ai thực-hành hạnh Lan-nhã sẽ được nhiều lợi-ích. Và đương thời, do nghe pháp, chúng-nhân cũng hưởng được nhiều lợi-ích.

Đến đây hết quyển thứ 7.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188411)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43689)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 24980)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30776)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20997)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38699)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27318)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31058)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33061)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23936)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16948)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20476)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31881)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18059)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20497)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26978)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 17997)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25516)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26594)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36524)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28020)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27253)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30289)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37030)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37198)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23833)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32248)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55095)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36843)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27537)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28270)
Công Phu Khuya
(Xem: 37911)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25371)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24114)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11193)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14471)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10596)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant