Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Ba: Nghi Vấn

24 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9219)
Phẩm Thứ Ba: Nghi Vấn


KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543

Phẩm Thứ Ba Nghi Vấn

DỊCH

Một hôm Vi thứ sử vì Tổ thiết đại hội trai, trai xong, Thứ sử thỉnh Tổ đăng tòa, quan liêu sĩ thứ đều thành kính lễ bái, hỏi rằng:

Đệ tử nghe Hòa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có một ít nghi, cúi mong Ngài đại từ đại bi đặc biệt vì giải nói.

Tổ bảo:

Có nghi liền hỏi, tôi sẽ vì các ông mà nói.

Thứ sử thưa:

Hòa thượng nói pháp, đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt-ma ư?

Tổ bảo:

Đúng vậy!

Thứ sử thưa:

Đệ tử nghe Tổ Đạt-ma khi mới đến vua Lương Võ Đế, Võ Đế hỏi: “Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức gì?” Tổ Đạt-ma bảo: “Thật không có công đức.” Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Hòa thượng vì nói.

Tổ bảo:

Thật khôngcông đức, chớ nghi lời của bậc tiên Thánh. Võ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong Pháp thân, không phải do tu phước mà được.

Tổ lại nói:

Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy Bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, Tâm thể lìa niệm là đức; không lìa Tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức Pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công, Tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này Thiện tri thức, mỗi niệm không có gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này Thiện tri thức, công đức phải là nơi Tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Võ Đế không biết chân lý, không phải Tổ sư ta có lỗi.

Thứ sử lại hỏi:

Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Hòa thượng nói, được sanh nơi cõi kia chăng? Nguyện vì phá cái nghi này.

Tổ bảo:

Sử quân khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ vì nói. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương dẫn hóa, văn kinh rõ ràng cách đây không xa. Nếu luận về tướng mà nói, số dặm có mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có mười ác và tám tà, liền là nói xa, nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì những người thượng trí. Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ, mê ngộ có khác, thấy có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ tự tịnh tâm mình, sở dĩ Phật nói: Tùy tâm tịnh liền được cõi Phật tịnh.

Sử quân, người phương Đông chỉ tâm mình tịnh liền không có tội, tuy người phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào? Phàm ngu không rõ Tự tánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy, cho nên Phật nói: Tùy chỗ mình ở hằng được an lạc.

Sử quân, Tâm địa chỉ khôngbất thiện thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành bình trực, đến như trong khảy móng tay, liền thấy đức Phật A-di-đà.

Sử quân, chỉ hành mười điều thiện đâu cần lại nguyện vãng sanh, không đoạn tâm thập ác thì Phật nào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảng sát-na. Còn chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh thì con đường xa làm sao đến được! Huệ Năngmọi người dời cõi Tây phương trong khoảng sát-na ở trước mắt khiến cho quí vị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng?

Chúng đều đảnh lễ thưa rằng:

Nếu ở cõi này mà thấy được thì đâu cần phải nguyện vãng sanh, nguyện Hòa thượng từ bi liền hiện Tây phương khiến cho tất cả được thấy.

Tổ bảo:

Này Đại chúng! Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh còn thì vua còn, tánh đi mất thì vua mất; tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, Tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là Phật Di-đà. Nhân ngã ấy là Tu-di, tà tâm là biển độc, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọngquỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu sisúc sanh.

Này Thiện tri thức, thường làm mười điều lành thì thiên đường liền đến, trừ nhân ngã thì núi Tu-di ngã, dẹp được tham dục thì biển nước độc khô, phiền não không thì sóng mòi mất, độc hại trừ thì rồng cá đều dứt. Ở trên Tâm địa mình là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hay phá sáu cõi trời dục, Tự tánh trong chiếu ba độc tức liền trừ địa ngục v.v... các tội một lúc đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cõi Tây phương, không chịu tu như thế này làm sao đến được cõi kia?

Đại chúng nghe nói rồi đều rõ ràng thấy được Tự tánh, thảy đều lễ bái, đều tán thán: “Lành thay!” Thưa rằng: “Khắp nguyện pháp giới chúng sanh nghe một thời liền ngộ hiểu.”

Tổ bảo:

Này Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần ở chùa, người tại gia mà hay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, còn người ở chùa mà không tu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tức là Tự tánh Tây phương.

Thứ sử Vi Cừ lại hỏi:

Người tại gia làm sao tu hành? Cúi xin Ngài vì chỉ dạy.

Tổ bảo:

Tôi vì Đại chúng làm một bài tụng Vô tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùng tôi đồng ở không khác, nếu không tu như thế này dù có cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng không có ích gì. Tụng rằng:

Tâm bình không nhọc giữ giới,
Hạnh thẳng không cần tu thiền,
Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ,
Nghĩa thì trên dưới thương nhau.
Nhường thì trên dưới hòa mục,
Nhẫn thì các ác không ồn,
Nếu hay dùi cây ra lửa,
Trong bùn quyết mọc sen hồng.
Đắng miệng tức là thuốc hay,
Nghịch tai là lời ngay thẳng,
Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ,
Giữ quấy trong tâm không hiền.
Mỗi ngày thường làm lợi ích,
Thành đạo không do thí tiền,
Bồ-đề chỉ hướng tâm tìm,
Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền.
Nghe nói y đây tu hành,
Cực Lạc chỉ ngay trước mắt.

(Tâm bình hà lao trì giới,
Hạnh trực hà dụng tu thiền,
Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,
Nghĩa tắc thượng hạ tương lân.
Nhượng tắc tôn ti hòa mục,
Nhẫn tắc chúng ác vô huyên,
Nhược năng toản mộc xuất hỏa,
Ứ nê định sanh hồng liên.
Khổ khẩu đích thị lương dược,
Nghịch nhĩ tức thị trung ngôn,
Cải quá tức sanh trí tuệ,
Hộ đoản tâm nội phi hiền.
Nhật dụng thường hành nhiêu ích,
Thành đạo phi do thí tiền,
Bồ-đề chỉ hướng tâm mích,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền.
Thính thuyết y thử tu hành,
Tây phương chỉ tại mục tiền.)

Tổ lại bảo:

Này Thiện tri thức, thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy Tự tánh, thẳng đó thành đạo. Pháp không đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về Tào Khê, chúng nếu có nghi, lại đến hỏi nhau.

Khi ấy Thứ sử quan liêu ở trong hội, kẻ thiện nam tín nữ mỗi người đều được khai ngộ, tin thọ vâng làm.

 

GIẢNG 1

Một hôm Vi thứ sử vì Tổ thiết đại hội trai, trai xong, Thứ sử thỉnh Tổ đăng tòa, quan liêu sĩ thứ đều thành kính lễ bái, hỏi rằng:

Đệ tử nghe Hòa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có một ít nghi, cúi mong Ngài đại từ đại bi đặc biệt vì giải nói.

Tổ bảo:

Có nghi liền hỏi, tôi sẽ vì các ông mà nói.

Thứ sử thưa:

Hòa thượng nói pháp, đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt-ma ư?

Tổ bảo:

Đúng vậy!

Thứ sử thưa:

Đệ tử nghe Tổ Đạt-ma khi mới đến vua Lương Võ Đế, Võ Đế hỏi: “Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức gì?” Tổ Đạt-ma bảo: “Thật không có công đức.” Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Hòa thượng vì nói.

Tổ bảo:

Thật khôngcông đức, chớ nghi lời của bậc tiên Thánh. Võ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong Pháp thân, không phải do tu phước mà được.

Phẩm thứ ba là phẩm Nghi Vấn tức là nếu có những điều nghi ngờ, đem ra hỏi Lục Tổ.

Điều nghi đầu tiên là khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa, đến yết kiến vua Lương Võ Đế, Vua liền hỏi: Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức gì? Tổ Đạt-ma bảo: Thật khôngcông đức. Chính câu nói này khiến nhiều người nghi, không biết tại sao làm những điều đó mà không công đức. Theo sử ghi: Vua Võ Đế thời đó cất mấy trăm ngôi chùa, độ Tăng tu hành rất đông, thiết trai bố thí và chính nhà Vua giảng được kinh. Như vậy Võ Đế cho rằng những việc làm ấy là đầy đủ công đức, nhưng không ngờ khi hỏi Tổ, Tổ bảo: Không công đức. Đó là tạt một gáo nước lạnh vào mặt Võ Đế, nhà Vua nản quá không thiết nói chuyện nữa. Vì thế đang đêm Tổ phải lén bỏ đi qua nước Ngụy, đến chùa Thiếu Lâm, ngồi trong động đến chín năm...

Nhắc lại câu Tổ Đạt-ma trả lời vua Lương Võ Đế, người học Phật chúng ta không ai không nghi ngờ, cất chùa, độ chư Tăng tu hành, làm nhiều việc phước mà Tổ bảo không công đức. Thật là vô lý! Khi làm các việc như vậy, các chùa thường bảo là công đức vô lượng vô biên, vì sao Tổ Đạt-ma lại nói không công đức? Trong phần này Lục Tổ giản trạch: Công đức thuộc về nội tâm, không phải ở bên ngoài. Công đức là do ngộ đạo đạt được Tự tánh, rồi từ tánh khởi dụng, những dụng ấy gọi là công đức. Còn phước đức là do việc làm bên ngoài mà được, như cúng dường, bố thí v.v... Vua Võ Đế lầm nghĩa phước đức và công đức là một nên Tổ nói không công đức.

Tổ lại nói:

Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy Bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, Tâm thể lìa niệm là đức; không lìa Tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức Pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công, Tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này Thiện tri thức, mỗi niệm không có gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này Thiện tri thức, công đức phải là nơi Tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Võ Đế không biết chân lý, không phải Tổ sư ta có lỗi.

Thấy tánh tức là đạt được Bản tánh mình là công, hành hạnh bình đẳng là đức. Trong tâm không ngô ngã rồi hành những hạnh cung kính mọi người đó là công đức v.v.... Như vậy công đức là nhằm thẳng Bản tâm mình, ngộ được Tự tánh mình rồi từ đó khởi dụng làm những hành động hợp đạo lý, thuyết pháp độ sanh hay tu các công hạnh, đó gọi là công đức.

Chúng ta ngày nay hay lầm lẫn cho rằng cất chùa, giúp chư Tăng, bố thí cúng dường là lập nhiều công đức và tự hào rằng mình làm công đức vô lượng vô biên cần phải được tán thán, không ngờ làm những việc ấy chỉ là tạo phước đức mà thôi. Lục Tổ giảng cho Thứ sử Vi Cừ và cả hội chúng hiểu rõ, đừng lầm phước đức với công đức.

Thứ sử lại hỏi:

Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Hòa thượng nói, được sanh nơi cõi kia chăng? Nguyện vì phá cái nghi này.

Điều nghi thứ hai là người tu hành niệm Phật A-di-đà cầu vãng sanh về Tây phương Cực Lạc, việc ấy như thế nào?

Tổ bảo:

Sử quân khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ vì nói. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương dẫn hóa, văn kinh rõ ràng "cách đây không xa”. Nếu luận về tướng mà nói, số dặm có mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có muời ác và tám tà, liền là nói xa, nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì những người thượng trí. Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ, mê ngộ có khác, thấy có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ tự tịnh tâm mình, sở dĩ Phật nói: Tùy tâm tịnh liền được cõi Phật tịnh.

Sử quân, người phương Đông chỉ tâm mình tịnh liền không có tội, tuy người phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào?

Tổ giải thích: Niệm Phật cầu sanh về Tây phương là vì người hạ căn; Tây phương cách chúng ta mười muôn ức cõi, nói xa như vậy là vì kẻ hạ căn. Nếu nói gần là vì người thượng trí, nói gần là: Tâm mình tịnh là cõi Phật tịnh, nếu tâm mình thanh tịnh thì ngay đây là Tịnh độ. Như vậy nói xa hay gần là tùy căn cơ, người mê hay người hạ căn niệm Phật cầu sanh về Tây phương tức về một cõi xa tít mù; người ngộ hay người thượng trí niệm Phật để tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức cõi Phật thanh tịnh, vậy cõi Phật thanh tịnh ở ngay tâm thanh tịnh của mình.

Tổ lại bảo: Từ đây đến cõi Cực Lạc cách xa mười muôn tám ngàn, là chỉ cho mười ác và tám tà. Nếu chúng ta hành Thập thiện và tu tám điều chánh (Bát chánh đạo) là chúng ta qua được mười muôn tám ngàn, đến được cõi Cực Lạc. Cõi Cực Lạc là do chúng ta hành thiện và thấy đúng, chớ không phải do chúng ta bay qua không gian đến cõi ấy. Tổ lại nêu vấn đề như chúng ta hiện nay ở cõi Ta-bà mê lầm tạo tội, nên cố gắng niệm Phật để sanh về Tây phương cho hết tội lỗi; Tổ bảo người mê tạo tội ở phương Đông, niệm Phật cầu sanh về phương Tây, nếu người phương Tây lỡ tạo tội, niệm Phật cầu sanh về đâu? Chẳng lẽ cầu sanh trở lại phương Đông? Như vậy điều cần yếu là hết tội chớ không phải cầu sanh về nơi nào. Nếu chúng ta ở phương Đông mà hết tội thì phương Đông là Cực Lạc; nếu ở phương Đông tạo tội, cầu về phương Tây, chúng ta mang tâm tham sân si về cõi Cực Lạc thì cõi Cực Lạc cũng trở thành ô uế. Thí dụ quí Phật tử ở thành phố ồn náo, lâu lâu lên núi thấy cảnh núi thanh tịnh, mong được lên núi cho thanh tịnh. Nếu khoảng một trăm vị lên núi, các vị này hay rầy rà gây gổ thì cảnh núi sẽ biến thành ồn náo như dưới chợ. Như vậy cảnh thanh tịnh là do tâm người thanh tịnh, sự thanh tịnh cốt ở tâm mình chớ không phải ở cảnh. Chúng ta ngày nay vì yếu đuối nên ỷ lại, niệm Phật cầu về Cực Lạc; tội lỗi không trừ dẹp, hung dữ vẫn còn, dù niệm Phật được nhiều chuỗi, thử hỏi có sanh được về cõi kia không? Trong kinh A-di-đà có câu: “bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc”, nghĩa là không thể lấy một chút ít phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi kia. Như vậy muốn được sanh về cõi kia, phải đầy đủ phước đức nhân duyên, tức là ngay đây phải hiền lành, phải thuần thiện mới được. Tổ chỉ thẳng cho chúng ta phải tịnh tâm mình thì cõi này là Tịnh độ. Nếu không tịnh tâm mà cầu sanh về cõi kia, điều đó khó thực hiện.

Phàm ngu không rõ Tự tánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy, cho nên Phật nói: Tùy chỗ mình ở hằng được an lạc.

Sử quân, Tâm địa chỉ khôngbất thiện thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành bình trực, đến như trong khảy móng tay, liền thấy đức Phật A-di-đà.

Sử quân, chỉ hành mười điều thiện đâu cần lại nguyện vãng sanh, không đoạn tâm thập ác thì Phật nào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảng sát-na. Còn chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh thì con đường xa làm sao đến được!

Người phàm phu ngu muội không nhận được Tự tánh của mình, ngay trong thân mình đã có sẵn Tịnh độ mà không biết, cứ cầu Tịnh độ ở ngoài. Còn người trí ngộ được Tự tánh của mình, liền thấy Tự tánhTịnh độ. Nếu chúng ta được chừng năm phút trong tâm không có niệm thương ghét buồn giận, thì ngay lúc ấy thấy đây là cõi tịnh. Trái lại nếu trong tâm còn buồn giận thương ghét thì đến chỗ nào cũng thấy toàn là phiền não. Vì thế chủ yếu của việc tu hành là tịnh ngay tâm mình, nhận được Tự tánh thanh tịnh của mình và sống với nó, đó là Tịnh độ. Người không biết tu, cứ chạy tìm cầu bên ngoài, rốt cuộc không đi đến đâu, vì làm sao tìm được lẽ thật ở bên ngoài!

Ví dụ như người học trò khôn ráng học bài thuộc, đi thi đậu; người học trò biếng nhác không chịu học bài, khi gần thi lo chạy tìm các thầy giáo năn nỉ xin giúp đỡ, như vậy làm sao bảo đảm được thi đậu? Nếu người có thiện chí giúp, ít nhất chúng ta phải có khả năng tương đương, còn dốt mà muốn thi đậu, việc ấy rất khó. Sự tu hành cũng như thế, nếu chúng ta không siêng năng hành thiện, dẹp trừ tội lỗi mà cứ cầu sanh về Cực Lạc, chờ Phật rước, làm sao Phật rước chúng ta về cõi Phật được, không sợ chúng ta làm nhơ cõi ấy hay sao? Như hiện nay có người hung dữ vào chùa xin tu, tuy chúng tôi phải độ người tu hành, nhưng chúng tôi phải dè dặt vì người hung dữ quá vào chùa làm ồn, chúng tu không được; huống là cõi Phật thanh tịnh mà đem những người ô uế về làm rối loạn nơi thanh tịnh sao? Thế nên phải biết rõ, điều cốt yếu là phải tịnh ngay tâm mình, đó là Tịnh độ.

Huệ Năngmọi người dời cõi Tây phương trong khoảng sát-na ở trước mắt khiến cho quí vị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng?

Chúng đều đảnh lễ thưa rằng:

Nếu ở cõi này mà thấy được thì đâu cần phải nguyện vãng sanh, nguyện Hòa thượng từ bi liền hiện Tây phương khiến cho tất cả được thấy.

Tổ bảo:

Này đại chúng! Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh còn thì vua còn, tánh đi mất thì vua mất; tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, Tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là Phật Di-đà. Nhân ngã ấy là Tu-di, tà tâm là biển độc, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọngquỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu sisúc sanh.

Này Thiện tri thức, thường làm mười điều lành thì thiên đường liền đến, trừ nhân ngã thì núi Tu-di ngã, dẹp được tham dục thì biển nước độc khô, phiền não không thì sóng mòi mất, độc hại trừ thì rồng cá đều dứt. Ở trên Tâm địa mình là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hay phá sáu cõi trời dục, Tự tánh trong chiếu ba độc tức liền trừ địa ngục v.v... các tội một lúc đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cõi Tây phương, không chịu tu như thế này làm sao đến được cõi kia?

Đại chúng nghe nói rồi đều rõ ràng thấy được Tự tánh, thảy đều lễ bái, đều tán thán: “Lành thay!” Thưa rằng: “Khắp nguyện pháp giới chúng sanh nghe một thời liền ngộ hiểu.”

Đến đây Tổ hỏi đại chúng: Các người muốn thấy cõi Cực Lạc không? Cả chúng đều hoan nghinh, xin được thấy, nghĩ rằng Tổ có thần thông hiện cõi Cực Lạc ngay trước mắt. Tổ mới dạy: Muốn thấy cõi Cực Lạc phải ngay nơi tâm mình thanh tịnh, trừ dẹp những tâm xấu xa ác độc thì cõi Cực Lạc hiện tiền, không phải cầu sanh về nơi nào khác. Ngài bảo dẹp tham sân thì địa ngục mất, hết ngu si thì súc sanh không còn, dẹp phiền não thì sóng mòi lặng, dẹp tâm ác thì biển độc khô, dứt ngô ngã thì núi Tu-di ngã. Nếu dẹp sạch được các điều xấu xa nhơ nhớp thì cõi Cực Lạc hiện tiền, không cần chạy đi đâu để tìm Cực Lạc. Thế mà người thế gian không chịu dẹp cái xấu, cứ một bề đòi về Cực Lạc thì làm sao đến được cõi ấy! Có nhiều vị tu hành cũng lâu, cũng khá rồi nhưng tâm sân chưa dẹp sạch. Mỗi khi nghe lời trái tai liền nổi giận rồi bảo: Tánh tôi như vậy! Nếu thật tánh mình là sân, như thế là chấp nhận mình ở địa ngục mãi sao? Đâu biết cái giận chỉ là một thói quen lâu ngày, biết nó là xấu phải mạnh dạn chừa bỏ, không nên chấp nhận và bảo đó là tánh của tôi. Điều cốt yếu của sự tu là tịnh tâm mình, tâm mình thanh tịnh rồi, dù ở đâu cũng là cõi thanh tịnh.

Ví dụ nơi trường học có cậu học trò nhỏ vừa bắt đầu học lớp một, rồi muốn vào đại học ngay, việc đó được không? Dù người cai quản đại họccảm tình với nó, cũng không thể nào đưa đứa học trò ấy vào đại học được. Đứa học trò phải học từ từ, xong phần trung học rồi có đủ khả năng mới vào đại học. Việc tu hành cũng như thế, dù Phật có lòng từ vô lượng, muốn độ chúng ta về cõi Phật, nhưng nếu chúng ta xấu xa ô nhiễm, thử hỏi Phật có độ về cõi kia được chăng? Muốn về cõi Phật, chúng ta phải có đủ khả năng, tức là tâm phải thanh tịnh, thì Phật sẽ đưa về cõi tịnh, việc ấy là chắc chắn. Tổ lại nói rộng quan niệm của Ngài về việc tu.

Tổ bảo:

Này Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần ở chùa, người tại gia mà hay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, còn người ở chùa mà không tu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tức là Tự tánh Tây phương.

Như vậy người tại gia mong vào chùa để được yên ổn tu hành, dứt bỏ những điều xấu dở, nhưng khi vào chùa lại không bỏ những điều xấu dở ấy, vẫn còn phiền não thì khi ấy sẽ chạy về đâu? Vì lẽ đó Tổ mới sách tấn chúng ta: Ở đâu cũng tu được, miễn là biết làm lành, miễn là biết trừ những tâm xấu. Chính việc đó Tổ đã làm, mười mấy năm Ngài sống chung với nhóm thợ săn dưới hình thức cư sĩ, tâm Ngài vẫn thanh tịnh. Thế nên Ngài dạy chúng ta ở chùa hay ở nhà mà biết tu cũng đều tốt, cũng đều quí. Tuy nhiên quí vị không nên hiểu lầm rồi sanh tự cao ngã mạn nói rằng: “Tôi ở nhà mà làm lành còn hơn các vị ở chùa mà làm ác.” Nếu các vị ở chùa mà làm lành nữa vẫn còn hơn các vị ở tại gia làm lành một bậc.

 

GIẢNG 2

Thứ sử Vi Cừ lại hỏi:

Người tại gia làm sao tu hành? Cúi xin Ngài vì chỉ dạy.

Tổ bảo:

Tôi vì đại chúng làm một bài tụng Vô tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùng tôi đồng ở không khác, nếu không tu như thế này dù có cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng không có ích gì. Tụng rằng: 

Tâm bình hà lao trì giới,
Hạnh trực hà dụng tu thiền,
Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,
Nghĩa tắc thượng hạ tương lân.

Người nào tâm bình rồi không nhọc phải giữ giới, hạnh được thẳng rồi không cần phải tu thiền. Tại sao? Tâm bình nghĩa là tâm không động, tâm không động đâu còn tạo nghiệp nữa mà phải trì giới. Tâm bình ví như mặt nước lặng, bằng phẳng, đâu có sóng gió. Tâm bình đâu có dấy niệm tham sân si. Sở dĩ chúng ta giữ giới là để ngừa tham sân si, nếu tâm đã bình, đâu còn tham sân si để ngừa! Thế nên nói: Tâm bình không cần trì giới, hạnh trực không cần phải tu thiền. Hạnh đây cũng là tâm, tức là tâm hạnh nếu ngay thẳng thì không cần phải tu thiền. Ngay thẳng là thế nào? Là không vướng bên này, không kẹt bên kia. Thường chúng ta hay dấy niệm chạy theo phải quấy tốt xấu, đó là hai bên. Nếu tâm mình ngay thẳng không kẹt hai bên, còn gì nữa mà tu thiền? Tu thiền là dứt tâm lăng xăng, nếu tâm lăng xăng không còn nữa, tu thiền là dư, nên nói hạnh trực không cần tu thiền.

Tuy nhiên nếu tâm chúng ta còn lăng xăng, nghĩ đây nghĩ kia thì cần tu thiền không? Dĩ nhiên là cần. Nếu tâm chúng ta chưa bình, gặp việc thì sân si nổi dậy, có cần giữ giới không? Tất nhiên là phải giữ giới, nếu không giữ giới, chắc tạo tội không sao kể xiết. Vì thế tâm chưa bình thì giới là quan trọng, hạnh chưa trực thì thiền rất thiết yếu. Khi nào tâm bình hạnh trực mới không cần giữ giớitu thiền, nếu chưa được như thế mà đem hai câu này ra nói, là một điều lầm lỗi lớn. Tỉ dụ khi nghe ai khuyên trì giới thì nói: “Tâm bình cần gì trì giới, Tổ đã nói rõ ràng, các người còn hình thức quá!” Nghe ai dạy tu thiền thì bảo: “Hạnh trực đâu cần tu thiền, Tổ đã dạy rồi mà!” Nhưng thử hỏi tâm chúng ta đã bình chưa? Hạnh chúng ta đã trực chưa? Nếu tự biết tâm mình chưa bình, hạnh chưa trực thì trì giớitu thiền rất cần thiết. Người học pháp thông thì ít, chấp thì nhiều, chấp chữ chấp nghĩa, đem kinh ra nói khoác mà không tu, trở thành công kích người khác, tạo tội ác khẩu, vậy chúng ta phải cẩn thận. Tóm lại muốn tu thiền, muốn giữ giới không gì hơn là tâm bình, hạnh trực. Tâm bình, hạnh trực là đủ cả giới, thiền trong đó.

Về cách xử sự tại gia, Tổ dạy: “Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ, nghĩa thì trên dưới thương nhau.” Nói về ân, không ân nào cao bằng ân cha mẹ. Khi đọc đến đây chúng tôi thấy rõ tâm niệm Phật Tổ không hai. Chính trong kinh Tăng Nhất A-hàm có một bài kinh nói về báo ân, đức Phật bảo: “Người nào biết đền ân, giả sử ở xa ta ngàn dặm, cũng như ở bên cạnh ta, người không biết đền ân, dầu đứng hầu bên cạnh ta, cũng như cách xa ta ngàn dặm.” Phật giải thích: Không ân nào hơn ân cha mẹ, thân này có từ nơi cha mẹ, nên đem cả sanh mạng bù đắp cho cha mẹ cũng không phải là quá! Thế nên người biết đền ân, trước phải nhớ ân cha mẹ, kế đó biết đền ân những người mình đã chịu ân, những người ấy, Phật bảo là gần với Phật. Trong đoạn này, Tổ cũng dạy: Người biết ân là phải nuôi dưỡng cha mẹ. Người biết ân như vậy đối với Tổ đó là người tốt, đối với Phật đó là người gần với Phật.

Nói về nghĩa, tình thâm nghĩa nặng nhất là tình nghĩa ruột thịt, không gì hơn tình nghĩa anh chị em, kẻ trên người dưới đều thương nhau. Tương lân là kẻ trên người dưới đều thương nhau. Như vậy đối với cha mẹ chúng ta hằng nhớ ân để đền đáp, đối với anh chị em hằng có tâm niệm thương nhau, đó là nền tảng đạo đức gia đình. Được như thế mới xứng đáng là người Phật tử biết đạo. Nếu chúng ta đi chùa vái lạy liên miên, khi về nhà gặp cha mẹ thì ngó ngang không chào hỏi, gặp anh em rầy rà lớn tiếng, người lối xóm nhìn vào sẽ bảo đó là đạo đức giả. Đây là điều không tốt, chúng ta không thể chấp nhận những người như vậy. Muốn đi chùa, muốn lạy Phật, trước hết chúng ta phải biết cha biết mẹ rồi biết anh em. Từ cha mẹ đến anh em chúng ta cư xử tốt, khi vào đạo chúng ta mới là người tốt. Nếu chúng ta là người ngoan đạo mà ở gia đình là kẻ bất hiếu bất nghĩa, sự ngoan đạo ấy chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Nếu trăm người Phật tử đều như vậy, chắc không ai dám vào đạo Phật nữa, vì vào đạo mà bất hiếu bất nghĩa thì vào làm gì? Chúng tôi nhắc lại, người Phật tử chân chánh phải có những bài thuyết pháp sống ngay nơi mình, nghĩa là trong cuộc sống gia đình phải là người mẫu mực biết làm lành, làm phải, biết ân cha mẹ, biết tình nghĩa anh em. Nếu chỉ có nếp sống đạo đức ở chùa mà không áp dụng nơi gia đình, đạo đức ấy không phải thật, vì người Phật tử không ở chùa thường, chỉ đến chùa một hay hai lần trong tháng, mà ở nhà thường trực hơn. Nếu sống thường trực nơi gia đình không ra gì thì sống một, hai ngày ở chùa có nghĩa lý gì đâu. Điều quan trọng là cách cư xử tại nhà: hiếu kính cha mẹ, thương mến anh em. Cha mẹ anh em là ân là nghĩa, là người ruột thịt gần gũi, nếu chúng ta không kể đến thì những người ngoài không có tình máu mủ, không ân nghĩa nặng nề, có làm điều trái ý, chúng ta có thể hại họ được. Tình thương ruột thịt không có thì tình thương xã hội khó mà tìm được. Hiểu được như vậy mới thấy rõ Phật, Tổ đều dạy chúng ta điều căn bản là đối với cha mẹ phải lấy ân để đền đáp, đối với anh em phải lấy nghĩa mà thương mến nhau.

Nhượng tắc tôn ti hòa mục,
Nhẫn tắc chúng ác vô huyên,
Nhược năng toản mộc xuất hỏa,
Ứ nê định sanh hồng liên.

Nhượng tức là nhường. Nhường nhịn nhau trên dưới mới được hòa mục. Anh em thương nhau chưa đủ, còn phải nhường nhịn nhau mới ổn, kẻ trên người dưới đều hòa hợp nhau. Người ẩn nhẫn thì những việc ác không còn làm ồn náo họ nữa. Người không ẩn nhẫn được thường hay mích lòng, bực tức dễ nổi sân si... nên việc ác làm ồn náo họ mãi. Nếu hay nhẫn được thì mọi sự ồn náo đều dứt sạch. Tóm lại Tổ dạy chúng tatại gia phải làm sao cho tình anh em không mất, muốn được như vậy anh em phải nhường nhịn nhau, nhường nhịn nhau mới đem lại hòa mục, đem lại êm ấm cho gia đình.

Ngài dạy tiếp: Nếu chúng ta hay dùi cây cho ra lửa, trong bùn nhất định hoa sen hồng mọc lên. Ngài muốn chỉ rằng người tại gia ở trong cảnh ồn náo khó tu, nhưng trong cảnh ấy mà vẫn cố gắng tiến tu như dùi cây cho ra lửa, như hoa sen mọc trong bùn. Trong bùn mới có hoa sen còn trên tảng đá sạch sẽ này làm gì có hoa sen mọc. Vì thế người tại gia gặp nhiều phiền não mà khéo tu cũng như trong bùn mọc lên hoa sen, cũng như dùi cây ra lửa vậy. Đây là Tổ muốn khuyến khích người cư sĩ tại gia phải nỗ lực tiến tu dù ở hoàn cảnh khó khăn nào, không vì cảnh khó mà sanh tâm thối chuyển, như vậy mới biến được dở thành hay.

Khổ khẩu đích thị lương dược,
Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn,
Cải quá tất sanh trí tuệ,
Hộ đoản tâm nội phi hiền.

Khổ khẩu là đắng miệng. Theo quan niệm xưa, thuốc hay tất phải đắng miệng, lời nói nghịch tai là lời ngay thẳng. Tại sao? Tỉ dụ chúng ta làm điều gì quấy, có người gan dạ chỉ lỗi giùm: huynh làm điều ấy sai, nếu chúng ta nghe lời chỉ dạy, biết nhận lỗi, đó là thuốc hay; nếu chúng ta nghe trái tai một chút liền nổi sân lên, đó là không tốt. Nhưng đa số người thế gian, ai cũng như ai đều thích được khen và không chịu bị chê. Giả sử chúng ta làm quấy một trăm phần trăm nhưng được người khác khen, chúng ta cũng vui thích. Ví dụ có người ăn trộm, trong xóm trong làng ai cũng biết mặt. Nếu chú ấy ăn mặc chải chuốt, có người khen: “chà! chú mầy giống như một nhà văn, một tài tử v.v...” thử hỏi chú ấy có vui lên không? có muốn gây với người khen chú không? Trái lại, nếu gặp chú ăn trộm ăn mặc chải chuốt, chúng ta liền nói: “kẻ ăn trộm mà cũng ăn diện bảnh bao”, tức nhiên chú ấy sẽ gây với mình ngay. Như vậy người đời lúc nào cũng thích được khen dù lời khen không đúng sự thật, còn lời nói thẳng dù đúng sự thật một trăm phần, người đời cũng vẫn giận, đây là nói chung cho tất cả mọi người, kể cả chúng ta. Vì thế chúng ta nên tập làm sao trước những lời nói trái tai vẫn vui vẻ nghe để sửa mình. Ai chỉ điều quấy, chúng ta liền nhận lỗi để sửa, như vậy mới là người biết tu. Những lời trái tai là lời trung thực, chúng ta ráng nghe để sửa mình.

Tổ dạy tiếp: Cải quá ắt sanh trí tuệ, còn gìn giữ hay bảo hộ điều quấy trong tâm là không phải người hiền. Người có lỗi mà che giấu là không phải người hiền, trái lại người làm quấy mà biết sửa là người trí tuệ. Đây là điều rất thiết yếu cho việc tu. Đa số chúng ta thường có quan niệm lầm lẫn, cứ nhìn vào người xuất gia, cho là những thần tượng, là những bậc Hiền Thánh, là những vị đã vượt qua người thế gian. Nhưng nếu được ở gần các vị ấy một thời gian, mới thấy các vị ấy thỉnh thoảng cũng lộ ra đôi chút phiền não; lúc bấy giờ các thần tượng đều sụp đổ, các Phật tử mới than: “Tưởng các vị tu hành là Thánh hết, tại sao còn dở quá vậy?” Rồi chán nản không còn muốn tu theo. Như thế, quan niệm đó đúng hay sai? Đấy là điều tôi muốn nhắc quí vị. Người tại gia, kể cả người xuất gia, quí vị phải quan niệm cho đúng. Chúng tôi chưa có ai được vào hàng Thánh, chúng tôiphàm Tăng, phàm Ni; đã là phàm tức là đang tu, đang tu tức là chưa sạch. Quí vị nên nhớ rõ, người nào đang tu tức người đó chưa sạch, như chiếc áo còn đang giặt chưa phải là áo sạch, nếu sạch rồi không ai giặt nữa. Như vậy còn giặt là còn nhơ, còn tu là còn khuyết điểm; còn khuyết điểm nên mới tu cho hết điều dở, xấu; hết khuyết điểm thì tu làm chi nữa, vì đã là Phật rồi. Vì thế đối với người tu, không nên đòi hỏi các vị ấy phải là thần tượng, phải là hiện thân của chân lý. Tuy nhiên có thể đòi hỏi các người tu như thế này: Nếu người tại gia xấu một trăm phần thì ít ra người xuất gia cũng được năm chục phần tốt, chỉ còn năm chục phần xấu, điều đó khả dĩ được. Người còn tu chưa phải toàn vẹn trăm phần, toàn vẹn là khi nào thành Phật. Người đang tu hơn được quí vị chừng hai, ba mươi phần trăm, hay khá lắm là năm mươi phần trăm là được lắm rồi, không nên đòi hỏi quá đáng. Hiểu như vậy, quí vị mới có thể thông cảm được với người tu và ở gần không chán. Nhưng người tu có nhiều điểm khác người thế gian, như người thế gian nghe lời trái tai có thể giận mười năm không bỏ; với người tu thì khác, trong sách có câu “Tăng hận bất cách túc” nghĩa là Tăng giận không quá một đêm. Như vậy người tu hay người thế gian đều có giận nhưng người tu chỉ giận chốc lát rồi bỏ. Không nên đòi hỏi người tu không còn tâm giận, vì tham sân si là ba cái gốc của cõi luân hồi này, còn ở cõi này tức là còn tham sân si. Khi nào dẹp sạch ba độc này là chứng quả A-la-hán; song hiện nay mấy ai chứng quả A-la-hán? Nhưng có điều hay là người tu khi làm điều dở bị phê bình liền biết hối cải. Tỉ dụ như người biết tu khi vừa nổi sân liền bị người chỉ lỗi “đó là hắc phong”, người biết tu liền hối hận bỏ ngay. Như vậy là tốt, là đáng khen, chớ đừng bảo người tu không có giận. Tất cả quí Phật tử cũng vậy, khi làm việc gì dở, được sự chỉ dạy của người trên, hoặc sự nhắc nhở của đồng bạn hay tự mình biết điều đó là dở liền bỏ, đó là người trí tuệ. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình không có điều dở, chúng ta có dở, nhưng biết sửa đổi, đó là tốt, là trí tuệ. Nếu dở mà cứ che giấu trong lòng hoài, đó là người không hiền. Không hiền là người gì? Là kẻ dữ. Người che giấu lỗi hoài là kẻ dữ, còn người hiền có lỗi gì phơi bày ra rồi chừa bỏ, đó là người tốt, người khôn ngoan, người trí tuệ.

Tóm lại, lời dạy của Tổ thực tế vô cùng, Ngài chỉ cho chúng ta tu một cách thiết thực. Ngài bảo ở trong gia đình, trên kính thờ cha mẹ, dưới thương anh em và nhường nhịn nhau cho trong nhà được an vui, đem lại sự hòa mục, nhẫn nhịn để lòng mình hết ồn náo. Được như vậy là mình khéo ở trong bùn mà mọc hoa sen. Ngài lại dạy lời nói ngay nghe trái tai nhưng có lợi, vì đó là lời trung thực cũng như thuốc đắng đã tật vậy; có lỗi liền biết sửa, đó là trí tuệ, có lỗi mà che giấu thì không phải là người hiền, hay nói nặng hơn, đó là kẻ dữ.

Nhật dụng thường hành nhiêu ích,
Thành đạo phi do thí tiền,
Bồ-đề chỉ hướng tâm mích,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền.

Mỗi ngày thường làm những điều lợi ích cho mọi người, cho chúng sanh. Nhiêu íchlợi ích cho nhiều người, cho chúng sanh. Người tu thành đạo không phải đem tiền thí mà thành đạo; thành đạo là do tu nơi tâm mình, thí tiền chỉ là phước ở bên ngoài. Thế nên người tu muốn giác ngộ là phải Tự tâm mình giác ngộ, chớ không phải cúng thí nhiều mà giác ngộ. Cúng thí là tạo phước để mình được những quả tốt cho đời sau, chớ không phải là thành đạo. Bồ-đề chỉ cho Tánh giác. Bồ-đề chỉ hướng trong tâm mà tìm, đâu có nhọc hướng ra ngoài cầu sự huyền diệu. Muốn giác ngộ phải ngay nơi tâm mình giác, đừng mong tìm ở bên ngoài, bên ngoài không có những huyền diệu đó.

Thính thuyết y thử tu hành,
Tây phương chỉ tại mục tiền.

Nghe nói y đây tu hành, Cực Lạc chỉ ngay trước mắt. Ngài bảo người nào y theo bài kệ Ngài dạy mà tu hành thì cõi Cực Lạc ở ngay trước mắt, không có xa xôi, không có cách mười muôn ức cõi. Vậy muốn thấy Cực Lạc thì hằng ngày ứng dụng đúng như bài kệ này sẽ thấy Cực Lạc hiện tiền.

Tổ lại bảo:

Này Thiện tri thức, thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy Tự tánh, thẳng đó thành đạo. Pháp không đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về Tào Khê, chúng nếu có nghi, lại đến hỏi nhau.

Khi ấy Thứ sử quan liêu ở trong hội, kẻ thiện nam tín nữ mỗi người đều được khai ngộ, tin thọ vâng làm.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12501)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12380)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53062)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35491)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21399)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14383)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16848)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19570)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18655)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12318)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17196)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13842)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14557)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11944)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant