Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nghi cúng lễ giao thừa

30 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 39130)
Nghi cúng lễ giao thừa

NGHI CÚNG LỄ GIAO THỪA
(01 – 01 – âm lịch)
 
* Tiết thứ làm nghi :

- Chuông trống Bát nhã. - Cử nhạc khai đàn.

- Chủ lễ đăng điện. - Cử nhạc tham lễ.

- Chủ lễ niệm hương. - Dâng hương - tác lễ.


- CÚNG HƯƠNG (chủ lễ xướng) :

Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo.

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sanh,

Cầu Phật từ gia hộ:

Tâm Bồ đề kiên cố,

Chí tu học vững bền,

Xa biển khổ mông mênh,

Chóng quay về bờ giác.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát. (3 lần)

 

- TÁN PHẬT (tán dương công đức Phật) :

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loại.

Qui y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ, (1)

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận!

 

- LỄ PHẬT :

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới Đế châuđạo tràng, (2)

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện qui y.

 

- ĐẢNH LỄ TAM BẢO :

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận Hư Không, Biến Pháp Giới, Quá Hiện Vị Lai Thập Phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng Thường Trụ Tam Bảo. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật; Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật; Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát; Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát; Hộ Pháp Chư Tôn Bồ tát; Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1lễ)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật; Đại Bi Quan Thế Âm Bồ tát; Đại Thế Chí Bồ tát; Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát; Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lễ)

 

- TÁN HƯƠNG (nhạc cúng hương) :

Hương xông đảnh báu,

Giới định tuệ hương,

Giải thoát tri kiến quí khôn lường,

Ngào ngạt khắp muôn phương,

Thanh tịnh tâm hương,

Đệ tử nguyện cúng dường.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát. (3 lần)

 

- TỤNG CHÚ ĐẠI BI :

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a lị gia bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả. Nam mô tất kiết lật đảo, y mông a lị gia bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà đà, ma phạt đặt đậu đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế,di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha, tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta ba ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô mạn đà ra bạt đà dạ ta bà ha.

 - TÁN PHẬT :

Trên trời dưới đất không bằng Phật,

Thế giới mười phương cũng khó bằng,

Thế gian có gì con đã thấy,

Tất cả không ai bằng Phật vậy!

Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo. (3 lần)

 

- BẠCH THỈNH :

Giao thừa Nguyên Đán lễ thiêng liêng,

Cung thỉnh mười phương Phật Thánh Hiền,

Duyên giác, Thanh văn cùng liệt Tổ,

Thiên thần Hộ pháp với Long Thiên.

Thiêu thân liệt Thánh tử vì đạo,

Dủ ánh uy quang giáng toạ tiền,

Lễ nhạc hương hoa xin cúng dưỡng,

Nguyện cầu giáng phước lễ minh niên.

Nam mô Chứng Minh Sư Bồ tát. (3lần)

 - TẤT CẢ NGỒI XUỐNG TỤNG BÀI Ý NGHĨA LỄ.

(tụng chậm, đậu câu thay vì sớ)

Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Từ Thị Di Lặc Tôn Phật. (3 lần)

Đêm nay ngày lành Nguyên đán,

Giờ này phút thiêng giao thừa,

Chúng con :

Tuân lệ cổ tục ngày xưa,

Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.

Truyền thừa Di phong thuở trước,

Lên chùa lễ Phật dâng hương.

Cầu minh niên vạn sự cát tường,

Nguyện xuân nhật Tam nguyên như ý!

Cũng trong lễ hôm nay :

Nhớ xưa có Đại sĩ,

Đức Di Lặc hóa sinh,

Huyện Phụng Hóa, Châu Minh,

Thuộc đời Lương, Trung Quốc.

Tin vui của trời đất,

Ân huệ của nhân sinh.

Ngài có một thân hình,

Đầy từ bi hoan hỷ.

Ngài có nhiều thần bí,

Rất khó nghĩ khôn lường.

Và không ít dị thường,

Thật ngờ phàm ngại thánh.

Người có nhiều kỳ hạnh,

Nói năng không định lời.

Xôn xao trong một thời,

Không ai biết sự thật.

Có người bảo là Phật,

Có kẻ gọi là Thầy,

Đi khất thực đó đây,

Ai cúng gì cũng lấy.

Bị vải treo đầu gậy,

Vật phẩm chứa không đầy,

Có lúc thấy ở đây,

Có khi gặp nơi khác.

Khuyên người chớ làm ác,

Dạy người nên làm lành,

Không ai biết tánh danh,

Gọi Bố đại (3) Hòa thượng.

Một hôm người dùng trượng, (4)

Tại núi chùa Nhạc Lâm,

Ngồi trên đá định tâm,

Nói bài kệ vắn tắt :

“Rằng Ta chơn Di Lặc

Phân thân ngàn muôn ức,

Thường hiện trước mọi người

Mọi người tự không biết”.

Nói xong Ngài nhập diệt,

Diệt Đông lại sanh Tây,

Ứng hóa khắp đó đây,

Vận thần thông diệu dụng.

Và trong một dịp khác :

Trước một số dân chúng,

Ngài tuyên bố như vầy :

“Ta có một vị Thầy (Phật)

Mọi người đều không biết,

Không tô vẽ sơn thiếp,

Không một chút thể sắc,

Không chạm trổ điêu khắc,

Không một chút cát bụi,

Sạch sẽ không lau chùi.

Người vẽ vẽ không thành,

Kẻ trộm lấy không được,

Thể tánh vốn tự nhiên.

Tuy là có một thể,

Phân thân ngàn muôn ức”.

Ngài sử dụng thần lực,

Hóa hiện khắp nhơn thiên,

Dạy vẽ kẻ hữu duyên,

Dắt dìu người ít phúc.

Xa lánh đời trần tục,

Đưa về cõi Thiên cung.

Hẹn Long Hoa tam hội trùng phùng,

Nguyện Suất Đà nhất sanh thân cận.

Giờ này mọi nhà kính cẩn,

Xưng dương tán lễ Hồng danh,

Đêm nay trăm họ chí thành,

Trân trọng cúng dường vía Thánh.

Trăm hoa hân hạnh,

Mừng hóa Phật giáng sinh;

Muôn vật vươn mình,

Đón xuân thiên khai thái.

Đến đây tất cả chúng con :

Cúi đầu lễ bái,

Cầu gia đình hạnh phúc an khương;

Ngửa mặt dâng hương,

Nguyện nước nhà hòa bình hưng thịnh.

Năm châu an định,

Bốn biển thanh bình,

Tình với vô tình,

Đồng thành Phật đạo.

Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật. (10lần)

 

- TÁN :

Bố đại Hòa thượng,

Di Lặc hóa thân,

Giao thừa mừng đón lễ Tân Xuân,

Ban phước xuống muôn dân,

Hân hạnh trăm phần,

Mừng rước lễ sanh thần. (giờ giáng sinh)

Nam mô Từ Thị Di Lặc Phật. (3lần)

 - TỤNG CHÚ TIÊU TAI :

Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẵng nẫm, đát diệt tha. Án khư khư, khư hế khư hế hồng hồng, nhập phạ ra, nhập pha ra, bát ra nhập pha ra, bát ra nhập phạ ra, để sắt sá, để sắt sá, sắt trí rị, sắt trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ ta phạ ha. (3 lần)

Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

Đêm ngày sáu thời thường an lành,

Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Phật từ thường gia hộ.

Nam mô Giáng Cát Tường Bồ tát. (3lần)

 - CHỦ LỄ XƯỚNG :

Tội từ tâm khởi đem tâm sám,

Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu,

Tội tiêu tâm tịnh thảy đều không,

Thế giới gọi là chân sám hối.

Nam mô Cầu Sám Hối Bồ tát. (3lần)

- TỤNG CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI :

Li bà li bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đà la ni đế, Ni ha ra đế, Tỳ lê nể đế, Ma ha dà đế, Chơn lăng càn đế, ta bà ha. (3lần)

 - HỒI HƯỚNG :

Vừa rồi bao nhiêu công đức,

Bấy nhiêu hương hoa,

Thành kính thiết tha,

Nguyện xin hiến cúng :

Chư Phật Thánh chúng,

Hộ Pháp thiện thần,

Duy nguyện ai lân,

Thùy từ minh chứng.

- PHỤC NGUYỆN :

Phật từ cảm ứng,

Pháp lực hiệu linh.

Gia hộ cho chúng con :

Chờ Phật Từ Thị giáng sinh,

Ngõ nghe Pháp âm tái chuyển.

Đợi thuở Long Hoa xuất hiện,

Hầu thấy Phật nhựt trùng quang.

Mong thế giới bình an,

Nguyện nhơn sinh hạnh phúc.

Năm mới an khang cung chúc,

Đầu xuân phước thọ chào mừng.

Mạch đạo lưu chuyển không ngừng,

Dòng đời đổi thay chẳng dứt.

Chúng con nguyện :

Tạo thêm công đức,

Tiêu bớt tội khiên,

Phủi sạch não phiền,

Trau dồi trí tuệ.

Học đạo Tứ đế,

Tu hạnh Nhất thừa,

Tinh tấn sớm trưa,

Cầu thành Phật đạo.

- LỄ BÁI THÙ ÂN :

Chí tâm đảnh lễ : Tận Hư Không, Biến Pháp Giới Quá Hiện Vị Lai Vô Lượng Thường Trụ Tam Bảo. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Hiện tọa Đạo tràng, Đại Từ Đại Bi, Bổn Sư Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Lạc Bang Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sinh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Tây Thiên Đông Độ Việt Nam Lịch Đại Truyền Giáo Chư Vị Tổ Sư. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Qui Y, Thế Độ Phú Pháp, Truyền Giới, Giáo Thọ Chư Vị Tổ Sư. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Việt Nam Phật Giáo Lịch Đại Thần Tăng, Thánh Tăng, Cao Tăng, Danh Tăng Chư Vị Tổ Sư. (1 lễ)

Chí tâm đảnh lễ : Chư Thánh Tử Đạo, Chư Vị CưTiền Bối Hữu Công Liệt Vị Giác Linh. (1 lễ)

Đại vì : Đàn na Thí chủ ân, Thiện hữu tri thức ân, đảnh lễ Thập phương thường trụ Tam Bảo. (1 lễ)

Đại vì : Quốc gia ân, chúng sanh ân, sư trưởng ân, phụ mẫu ân, đảnh lễ Thập phương thường trụ Tam Bảo. (1 lễ)

 - KINH BÁT NHÃ :

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.

Quán Tự Tại Bồ tát hành, thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

“Xá lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc,sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng , hành, thức diệc phục như thị.“Xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh , bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỉ ,thiệt, thân, ý ;vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chílão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu tam Bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư, cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết :“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la Tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha”.

 - TÁN :

Giao thừa Nguyên đán lễ nghiêm trang,

Rước Phật đón xuân lễ đã hoàn,

Công đức vô biên ban tất cả,

Vui mừng chúc tụng khắp nhơn gian.

Nam mô Viên Mãn Tạng Bồ tát. (3 lần)

 - TỤNG :

Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,

Nguyện được trí tuệ thật sáng tỏ,

Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,

Kiếp kiếp thường làm hạnh Bồ tát.

Nguyện sanh Cực lạc cảnh Tây phương,

Chín phẩm hoa sencha mẹ,

Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh,

Bất thoái Bồ tát là bạn hữu.

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tửchúng sanh,

Đều trọn thành Phật đạo.

 

Tự qui y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lễ)

Tự qui y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)

Tự qui y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)

 

- CHỦ LỄ XƯỚNG :

Rước Xuân lễ mãn,

Khánh đản lễ thành,

Chuông trống hòa thanh,

Lễ từ ba lạy.

 

 

*Ghi chú :

(1) Ba kỳ : ba vô số kiếp.

(2) Đế châu : lưới ngọc của trời Đế Thích.

(3) Bố đại : bị vải.

(4) Trượng : gậy.

 

Lời dặn

1/ Khi làm lễ gặp trong nghi có dấu gạch ngắn ở đầu hàng (-) đó là tựa đề của mỗi đoạn trong nghi. Người làm lễ không đọc, không tụng các đoạn ấy.

2/ Gặp đoạn có chữ “Tán Phật, tán hương”, cũng không đọc không tụng mà chỉ tụng hay tán các câu ở dưới kế tiếp.

3/ Vị chủ lễ (sư - cư sĩ) nên hướng dẫn Phật tử làm lễ trong việc đọc tụng rất rõ ràng, thư thái, đậu câu, mạch đoạn phân minh. Gặp các câu dài, nhiều chữ phải cắt làm 2 câu.

4/ Lễ cần trang nghiêmthành kính.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12065)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12096)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10615)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12685)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16578)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11951)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18017)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12175)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant