Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 27055)
Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh

BẤT KHÔNG QUYẾN TÁC THẦN CHÚ TÂM KINH
* Đường Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch từ Phạn ra Hán văn.
* Sa-môn Thích Viên Đức dịch ra Việt văn. (1976)

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la, chiêm-bác-ca, a-du-ca, Cực giải thoát. Lại có vô lượng các cây báu xen nhau trang nghiêm chung quanh, hương thơm hoa đẹp, cỏ lạ mềm dịu nơi nơi đều có. Lại có vô lượng suối ao khe báu, có nước tám thứ công đức đầy dẫy, trong ấy các hoa đơm trổ trang sức một cách rất thích thú. Lại có vô biên các loại cầm thú khác nhau, hình dung thù diệu, đều đủ từ tâm, phát ra các thứ âm thanh dường như âm nhạc: cùng các vị Tỳ-khưu chúng 8.000 vị đều đầy đủ, 99 câu-chi na-du-da trăm ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát, vô lượng trăm ngàn chúng chư Thiên cõi trời Tịnh Cư, Tự Tại Thiên chúng, vô lượng trăm ngàn trước sau vi nhiễu nghe Phật thuyết Pháp.

Lúc bấy giờ, trong hội có một vị Ðại Bồ-tát gọi là Quán Tự Tại từ tòa đứng dậy, sửa sang y phục, trịch vai áo một bên, gối hữu sát đất, chắp tay hướng Phật, nét mặt vui vẻ, nở nụ cười mà bạch đức Phật rằng: “Con có thần chú tâm gọi là Bất Không Quyến Tác. Con ở thời xưa kia cách nay 91 kiếp, có thế giới gọi là Thù Thắng Quan, trong ấy có đức Phật gọi là Thế Chủ Vương Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Ðiều Ngự Sĩ, Phật, Bạc-già-phạm. Đức Phật Thế tôn kia thương xót con, cho nên vì con mà nói đại thần chú tâm này. Con liền thọ trìoai thần lực vậy, thường vì vô lượng TịnhThiên chúng, Tự Tại Thiên chúng, Ðại Tự Ðại Thiên Chúng, Ðại Phạm Thiên Vương và nhiều Thiên chúng, vô lượng trăm ngàn cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen, con đều giáo hóa họ, khiến họ đến thẳng đạo Vô thượng Bồ-đề Chánh Ðẳng Chánh Giác. Con nương sức công đức như thế nên liền thu hoạch mười ức Bất Không Diệu Trí Thượng Thủ Trang Nghiêm Ðại Tam-ma-địa. Do được định lực này hiện thấy mười phương vô lượng vô số chư Phật thế giới, hết thảy Như Lai và các chúng hội, đều đi đến cúng dường và nghe học Chánh pháp, lần lượt giáo hóa vô lượng hữu tình, đều khiến phát tâm thẳng đến Vô thượng giác, cho nên chú lực này không thể nghĩ bàn, hay cứu chúng sanh khỏi vô lượng khổ nạn, các kẻ hữu trí đều nên thọ trì.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu chỗ nào có thần chú tâm này thì phải biết là chỗ đó có Tự Tại Thiên, Ðại Tự Tại Thiên, Phạm Thiên Vương... làm thượng thủ, cùng 12 ức chư Thiên thần chúng thường cùng giữ gìn cung kính cúng dường chư Phật Chế-đa (tháp nhiều tầng) không khiến bạo ác, các quỷ thần thảy đều dạo chơi trong ấy.

Kính thưa đức Thế tôn! Tùy theo quốc ấp nào lưu hành Bất Không Quyến Tác Thần Chú Tâm Kinh như thế, phải biết rằng trong quốc ấp ấy các loài hữu tình đã trồng các căn lành nơi vô lượng câu-chi na-du-đa trăm ngàn chư Phật, nay nương thừa đại nguyện lựctrở lại đây.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có chúng sanh tạo các trọng tội, tập hành ác pháp, hủy nhục Hiền thánh, phỉ báng Chánh pháp sẽ đọa trong Vô gián đại địa ngục, trải qua vô số kiếp thọ các kịch khổ. Chư Phật, Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn tuy đầy đủ thần thông mà không thể cứu vớt. Chúng sanh kia nếu nghe Tâm Kinh thần chú này hay sinh lòng hối hận trọn không dám tạo nữa. Nếu chúng sanh kia lại trải qua một ngày một đêm thọ trì trai giới tụng Tâm chú này thì hiện đời thọ nhẹ những tội nghiệp đã làm, không phải đọa Vô gián địa ngục. Tại sao chứng biết người kia hiện tại thọ nhẹ quả báo, không đọa địa ngục? Nghĩa là nếu thoạt gặp những bịnh lạnh nóng, hoặc trải qua một ngày, hai ngày, hoặc lại cho đến trải qua bảy ngày, hoặc bịnh mắt đau, tai đau, mũi đau, răng đau, môi đau, lưỡi đau, hoặc nướu đau, hoặc tim ngực đau, hoặc bụng rún đau, hoặc lưng vai đau, hoặc hông sườn đau, hoặc âm khoan đau, vế gối đau, hoặc chi tiết đau, hoặc tay chân đau hoặc đầu mặt đau, hoặc yết hầu cổ họng đau, hoặc vai cánh tay đau, hoặc gặp phong bịnh, khí bịnh, trĩ bịnh, lỵ bịnh, lâm bịnh, hoặc gặp suyễn bịnh, tiễn bịnh, bạch lại hắc lại bịnh và các giới tiễn (các loại lác); hoặc mắc phải bào sang, cam sang, hoa sang, lậu sang, độc sang, gặp ung thư, ung thủng, du thủng, đinh thủng, tiết thủng, độc thủng; hoặc bịnh điên giản, hoặc bịnh cam thấp; hoặc bị quỷ mỵ, hoặc bị trù ếm, hoặc bị chú trù rủa, hoặc bị độc dược, hoặc bị tù trói, bị gông cùm xiềng xích, hoặc bị đánh mắng, hoặc bị phỉ báng, hoặc bị mưu hại, hoặc bị khủng bố, hoặc lại gặp các việc tăng giảm bất nhiêu ích; tóm lại mà nói, đã có thân tâm bức thiết khổ não và thấy ác mộng, do đây chứng biết rằng người kia hiện thọ khinh báo, không bị đọa vào Vô gián địa ngục. Ðã tạo tội nghiệp thảy đều tiêu trừ, chúng sanh như thế, do chú lực đây, hiện đời thọ khinh báo, trọng tội thì được tiêu trừ, huống gì các hữu tình thân tâm thanh tịnh, nghe trì chú này mà không thu hoạch được phước báo hay sao, tội nghiệp đời trước cũng được tiêu trừ, hiện tại vị lai thường được an lạc sung sướng.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có bốn chúng hoặc bốn giòng họ ([1]) giả như đem tâm dua nịnh dối trá mà nghe học thần chú tâm kinh này, thọ trì đọc tụng chép viết cúng dường, vì người khác khen nói, khiến cho họ nghe nhận, cho đến tự mình đến bên tai của loài súc sanh khẩn thiết niệm tụng giúp cho chúng được nghe, lại còn thẩm xét suy tư chương cú thần chú này, không phỉ báng, không chấp giữ tướng, không phân biệt, không có các khởi tâm; không chậm hành trì, vô vi mà làm, xa lìa nhiễm ô, tâm bình đẳng, không tăng giảm, lìa ngủ uẩn. Người kia dựa vào phương tiện này ở chỗ chư Phật lại tu tùy niệm, và nhờ có sức công đức như thế, ở nơi mười phương, mỗi phương có ngàn Phật đến hiện trước mặt người ấy dạy dỗ khiến cho họ ăn năn, hối hận, trừ những tội đã làm trước kia, đã có sở nguyện gì đều khiến mãn túc.

Nếu không thể làm những điều ở trên đã nói, mà chỉ chép viết thần chú tâm Kinh này để trong nhà lễ bái cúng dường cũng được vô lượng vô biên công đức.

Thưa đức Thế tôn! Nếu có chúng sinh vì muốn thắng kẻ khác hoặc sợ chủ, hoặc sợ oán cừu, sợ ác thú, sợ ách nạn, hoặc theo kẻ khác, hoặc cầu cao quý, nhiều tài bảo, nghe học thần chú tâm Kinh như thế, mặc dù nghe học nhưng lại không cung kính, hoặc lại phỉ báng, khinh khi chê bai, thì người trí nên biết chẳng phải do tự lực của chúng sinh kia, mà là do oai thần lực của Quán Tự Tại Bồ-tát khiến chúng sinh ấy được nghe lọt vào tai, nhờ đó chúng sinh ấy hiện tại, vị lai được những việc lợi lạc như vậy.

 Kính thưa đức Thế tôn! Thí như có người đạp bẻ trầm hương hoặc lấy xạ hương hoặc vào trong rừng chiên đàn, long não hương… v.v, tuy phỉ báng, khinh khi chê bai các thứ nhưng lại mài trộn dùng để thoa thân thể. Tuy nhiên trầm hương, xạ hương lại không tác ý rằng “người kia đạp gãy lăng mạ, nên ta không cho họ mùi hương” mà cái tánh tự nhiên của trầm xạ là tiết ra mùi thơm. Thần chú tâm này cũng lại như thế. Tuy có phỉ báng, khinh tiện, chê bai hoặc là đem cái tâm dua nịnh, cong quẹo như trên đã nói, chép, viết, thọ trì, cung kính cúng dường thì cũng làm nhân duyên căn lành của người kia, khiến cho người kia đời đương lai tùy sinh chỗ nào đều đầy đủ công đức diệu hương của Giới Ðịnh Huệ, cũng hay vì kẻ khác mà làm những việc hương thơm đó. Vậy cho nên oai đức của thần chú này rất khó nghĩ bàn, tin báng gì cũng hay đều hay làm những việc nhiêu ích.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có kẻ trai lành và người gái tín,Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hoặc còn nhiều người khác nữa, vào ngày mùng 8 tháng bạch nguyệt, thọ trì trai giới chuyên tâm tụng đại thần chú tâm Kinh này cho đến bảy biến không xen tạp ngữ khác thì phải biết người đó hiện đời quyết định được 20 điều lợi ích thù thắng. Những gì là 20 điều?

1. Thân không có các bịnh, yên ổn sung sướng
2. Do những nghiệp lực đời trước tuy có bịnh sinh mà hay trừ lành
3. Thân thể mềm mại, nhỏ nhiệm, da thịt trắng trẻo đẹp đẽ, mắt mặt trong sáng
4. Mọi người kính thương
5. Mật hộ các căn
6. Thu hoạch nhiều tài bảo, tùy ý thọ dụng
7. Ðã có tài bảo, vương tặc thủy hỏa không thể xâm tổn
8. Ra làm sự nghiệp gì đều thành tựu tốt đẹp
9. Nếu có trồng tỉa, không sợ ác long, sương muối, bão lụt
10. Nếu có ruộng lúa mạ bị tai hoạnh, lấy thần chú này chú trong tro sạch hoặc nước sạch trải qua bảy biến xong rồi, đem rải ở tám phương của ruộng kia, trên dưới mà kiết giới, tai hoạnh lúc bấy giờ đều liền bị trừ diệt
11. Không bị tất cả quỷ thần, La-sát bạo ác hớp đoạt tinh khí
12. Tất cả hữu tình thấy nghe hoan hỷ, ưa mến tôn trọng thường không biết nhàm chán
13. Thường không lo sợ tất cả oán cừu
14. Giả như có oán cừu, mau tự tiêu diệt
15. Nhơn cùng Phi nhơn... không thể xâm hại
16. Ếm mị, trù rủa, cổ đạo không dính vào thân
17. Phiền não, triền cấu, không thể hiện hành
18. Ðao độc, hỏa thủy không thể thương tổn
19. Chư Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ
20. Ðời đời không xa lìa từ bi hỷ xả

Người tu hành kia được 20 điều lợi ích thù thắng như thế. Lại còn thu hoạch được tám pháp nữa. Những gì là tám?

1. Khi mạng chung được thấy đức Quán Tự Tại Bồ-tát hiện tướng Tỳ-khưu đến trước mặt người trì chú này vui mừng khen ngợi, an ủy.
2. Mạng chung yên ổn, không có các điều đau khổ.
3. Khi sắp xả mạng, mắt không trợn ngược, miệng không hả méo, tay buông thong thả, chân lìa tướng mỏi mệt, không tiết ra những chất dơ uế của đại tiểu tiện, không rớt nghiêng xuống giường.
4. Khi sắp xả mạng thường an trụ chánh niệm, không loạn tưởng
5. Khi mạng chung không che mặt mà chết
6. Khi sắp xả mạng được vô tận biện
7. Ðả xả mạng rồi, tùy nguyện vãng sanh Tịnh độ của chư Phật
8. Thường cùng bạn lành không xa rời nhau.

Kính thưa đức Thế tôn! Nếu có kẻ trai lành, người gái tín… vv, hay đoạn dứt rượu thịt và các thứ ngũ tân, không ăn chút tàn dư dơ uế, thân thường thanh khiết, ngày ngày ba thời chuyên tâm trì tụng Bất Không Quyết Tác thần chú tâm Kinh như thế, người kia được ngày đêm tăng trưởng công đức thù thắng.

Nếu hay đối với pháp xả lòng xan lẫn, lìa tâm tật đố, chuyên làm lợi lạc tất cả hữu tình, quán xem các chúng sanh có tâm hữu lực hay vô lực, tương ưng vì họ mà nói thần chú tâm Kinh này thì phải biết rằng những hạng người đó mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, được xem như ngang bằng các Ðại Bồ-tát. Những người đó gọi là Bồ-đề Tát-đỏa. Bồ-đề được nói đến có nghĩa là Bát-nhã, Tát-đỏa tức là phương tiện. Hai pháp như thế đối với các hữu tình hay làm tất cả lợi ích an vui.

Kính thưa đức Thế tôn! Con nay vì muốn lợi ích an vui cho tứ bộ chúng và vì trừ diệt tội nghiệp của những ác hữu tình, ở trước Như Lai muốn nói thần chú này, cúi mong đức Thế tôn thương xót cho phép con!”

Lúc bấy giờ, đức Thế tôn dạy Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát rằng: “Ðại chúng thanh tịnh, đã đến lúc nên nói. Ta cũng tùy hỉ, thần chú tâm này là phụ mẫu của Bồ-tát đời đương lai, khiến Bồ-tát đã làm các sự nghiệp mau được thành tựu, cũng khiến tất cả những việc khủng bố mau được trừ diệt.”

Lúc bấy giờ Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát được đức Phật cho phép nên vui mừng hớn hở, chiêm ngưỡng Tôn nhan, mắt chưa tạm rời, chắp tay cung kínhbạch Phật rằng: “Thần chú Tâm này là chỗ các Bồ-tát nên tôn trọng, cung kính cúng dường vì đó là tối Giải thoát viên mãn Pháp môn, làm lợi ích an vui cho các chúng sinh. Các vị muốn thọ trì Tâm chú này, nên trước hết kính lễ quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật và chư Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn. Lại nên kính lễ Chánh chí Chánh hạnh, lại nên kính lễ Xá-lợi… v.v., chư đại Thanh văn. Lại nên kính lễ Thánh Từ Thị… v.v., chư Ðại Bồ-tát. Lại nên kính lễ Vô Lượng Quang Phật. Lại nên kính lễ Phật Pháp Tăng bảo. Lại nên kính lễ thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Cụ Ðại bi giả. Ðã kính lễ rồi, lại nên niệm rằng: “Thần chú Tâm này gọi là Bất Không Quyến Tác, là Quán Tự Tại Bồ-tát ở trước đức Như lai tại trong đại chúng, thân tự diễn nói. Con nay đọc tụng, nhờ đó tất cả sự nghiệp mau được thành biện, khiến tất cả việc khủng bố mau bị trừ diệt”, khởi niệm ấy rồi tức đọc tụng rằng:

Ðát Ðiệt Tha: Ám Triết Lạc Triết Lạc, Chỉ Lí Chỉ Lí, Chủ Rô Chủ Rô
Khể thủ Cụ Ðại bi giả:
Tát Lạc Tát Lạc, Tử Lí Tử Lí, Chỉ Lí Chỉ Lí, Tỉ Lí Tỉ Lí
Khể thủ Ðại Liên Hoa Thủ:
Yết Lã Yết Lã, Kiết Lị Kiết Lị, Khuất Lộ Khuất Lộ
Khể thủ Ðại tịnh hữu tình:
Bột Ðiệt Bột Ðiệt, Tha Bà Tha Bà, Khẩn Ni Khẩn Ni
Khể thủ Cực tịnh hữu tình:
Yết Lạc Yết Lạc, Chỉ Lị Chỉ Lị, Củ Rô Củ Rô
Khể thủ Ðắc đại thế giả:
Triết Lã Triết Lã, San Triết Lã, San Triết Lã, Tì Triết Lã Tì Triết Lã, Y Triết Tra Y Triết Tra, Bạt Lạc Bạt Lạc, Tỉ Lị Tỉ Lị, Bộ Rô Bộ Rô, Y Hế Y Hế
Khể thủ Ðại bi Ðại thú Vương tướng
: Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Tát Lạc Tát Lạc, Triết Lạc Triết Lạc, Bác Lạc Bác Lạc, Hát Lạc Hát Lạc, Kha Kha Hế Hế, Hô Hô Ống Ca Lạc
Khể thủ Ðại Phạm Vương tướng:
Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Ðịa Lị Ðịa Lị, Ðổ Rô Ðổ Rô, Ðát Lạc Ðát Lạc, Tác Lạc Tát Lạc, Bác Lạc Bác Lạc, Phiệt Lạc Phiệt Lạc
Khể thủ Bách Thiên Quang Trang nghiêm thân:
Thập Phiệt Lã Thập Phiệt Lã, Ðáp Bá Ðáp Bá, Bạc-già-phạm
Khể thủ Nhật Nguyệt Diêm Ma Phiệt Rô Nõa Củ La Thích Phạm, dữ Tài Ðẳng Thiên Tiên chúng sở cúng dường chi:
Mạt Lạc Mạt Lạc, Nhỉ Lí Nhỉ Lí, Mẫu Rô Mẫu Rô, Tốt Rô Tốt Rô, Chủ Rô Chủ Rô
Khể thủ Tác Nại Ðồng Tử Rô Ðạt La Y Tỳ Sắc Nộ Ðạt Nại Ðà Tiên Na Dược Ca Tì Na Dược Ca chúng đa hình tướng
: Ðạt Lạc Ðạt Lạc, Ðịa Lí Ðịa Lí, Ðổ Rô Ðổ Rô, Thác Lạc Thác Lạc, Yết Lạc Yết Lạc, Bát Lạc Bát Lạc, Xả Lạc Xả Lạc, Thứ Lạc Thứ Lạc, Hát Lạc Hát Lạc, Mạt Lạc Mạt Lạc, Phiệt Lạc Phiệt Lạc
Khể thủ Dữ nguyện Phổ Quán Thắng Quán Thế Tự Tại Ðại Tự Tại:
Mẫu Hô Mẫu Hô, Mẫu Rô Mẫu Rô, Mẫu Da Mẫu Da, Muộn Giá Muộn Giá, Lạc Xoa Lạc Xoa
Khể thủ năng linh ngã cập nhứt thiết hữu tình giải thoát nhứt thiết bố úy, giải thoát nhứt thiết yểm cổ, giải thoát nhứt thiết tai hoạnh, giải thoát nhứt thiết tật bịnh, giải thoát nhứt thiết tà mị vọng lượng giải thoát nhứt thiết oan gia sát phược khủng hát chúy dã, giải thoát nhứt thiết vương nạn tặc nạn, giải thoát nhứt thiết thủy hỏa phong nạn, giải thoát nhứt thiết đao độc đẳng nạn giả:
Yết Nõa Yết Nõa, Khẩn Ni Khẩn Ni, Khuất Nữu Khuất Nữu, Triết Lạc Triết Lạc
Khể thủ năng khai thị nhứt thiết căn lực giác chi đạo chi tứ thánh đế giả:
Ðáp Ma Ðáp Ma, Táp Ma Táp Ma, Mạt Ta Mạt Ta
Khể thủ năng trừ chư đại hắc ám, sinh trưởng mãn túc lục Ba-la-mật-đa giả:
Nhĩ Lí Nhĩ Lí, Tra Tra Tra Tra, Sá Sá Sá Sá, Trí Trí Trí Trí, Chú Chú Chú Chú
Khể thủ bị phục y nê da bì, cụ đại từ bi tự tại đại tự tại, năng phá nhứt thiết ác quỷ thần giả, tốc lai tốc lai cứu hộ ngã đẳng:
Củ Lô Củ Lô, Bác Lạc Bác Lạc, Tác Lạc Tác Lạc, Yết Lạc Yết Lạc, Yết Tra Yết Tra, Mạt Tra Mạt Tra
Khể Thủ Trụ Tịnh Ðộ Cụ Ðại Bi Giả, Thân Bội Bạch Kiết Tường Lũ, Cảnh Ðới Chúng Bảo Anh Lạc, Thủ Quan Hoa Man Bảo Quan, Ư Bảo Quan Trung Ðương Vu Ðảnh Thượng Hữu Nhứt Thiết Trì Tượng, Thủ Chấp Hi Hữu Ðại Bảo Liên Hoa, Ư Chư Tịnh Lự Ðẵng Trì Giải Thoát Chúng Diệu Công Ðức, Giai Bất Khuynh Ðộng, Thiện Năng Thành Thục Nhứt Thiết Hữu Tình, Cụ Ðại Từ Bi, Năng Trừ Nhứt Thiết Nghiệp Chướng, Năng Cứu Nhứt Thiết Bịnh Khổ, Phổ Năng An Ủy Nhứt Thiết Hữu Tình:
Ám Hiệt Lị Ðát Lai Lộ Ca Tỳ Ám Da. Úm Mộ Già Bá Xa, Hiệt Lị Ðạt Da, Úm Bát Lạc Ðể Hát Ða, Yểm Phái Tóa Ha, Nạp Mổ A Mộ Dà Da Tóa Ha, Nạp Mô A Thị Ða da Tóa ha, Nạp Mô A Bác, La Thị Ða Da Tóa Ha, Nạp Mô Phiệt Lạc Bát Lạc Trá Da Tóa Ha, Nạp Mồ Tát Bà Yết Ma Tất Ðạt Duệ Tóa Ha, Yểm Ðổ Da Tráng Tóa Ha.

Tụng thần chú tâm này quyết có linh nghiệm, hay thọ trì thần chú này, chỗ mong cầu đều thành tựu. Các vị cứ mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng 108 biến, ngũ vô gián tội quyết được trừ diệt. Tất cả nghiệp chướng đều được thanh tịnh. Khi muốn tụng niệm, trước phải kiết giới. Muốn làm pháp kiết giới kia, lấy tro hoặc nước hoặc bạch giới tử (hạt cải trắng) hoặc đam sơn quyết ([2]) chú bảy biến khiến đóng bốn phương, thiêu trầm thủy hương, chí tâm niệm tụng. Các bịnh lạnh nóng và sốt rét nên chú trong dây gút 21 biến, đeo trên cổ hoặc đeo trên tay tức được trừ lành. Có các người bịnh, chú trong bơ, trong dầu hoặc là chú trong nước 21 biến khiến cho người bịnh ăn uống, liền được trừ lành.

Nếu muốn giải sự ếm đối trù rủa của kẻ khác, lấy bùn dẻo thanh tịnh hoặc bún hoặc mật hoặc sáp ong… v.v., làm hình tượng người ếm đối, niệm tụng chú này, tay cầm dao bén, phát lòng từ mẫn thương xót người ếm đối mà chặt cắt từng đoạn. Lại dùng thần chú, chú vào chỉ rồi đeo vào thân người bị ếm, khiến các sự sợ hãi liền được trừ lành.

Các bịnh đau bụng nên chú trong nước muối khiến cho người bịnh uống liền được trừ lành. Gặp các cổ độc hoặc rắn hoặc rít, sâu v.v., đã cắn mổ, chú trong nước khiến uống, chú trong bùn dẻo mà thoa, tức được trừ lành. Các bịnh đau mắt, nên chú vào sợi chỉ trắng đeo trên tai của người bịnh, liền được trừ lành. Có các bịnh răng nướu, đau nhức nên chú trong cây Yết-la-tỉ-la 21 biến rồi bỏ vào miệng mà nhai, đều được trừ lành.

Các chỗ sợ hãi, nên phải kiết giới mà ở trong đó, giới pháp kết kia được thực hiện bằng cách chú trong chỉ ngũ sắc 21 biến, đem giăng trên cái cọc nhọn đã được đóng sâu ở bốn góc, liền được không sợ hãi. Muốn tự hộ các việc cho mình, nên lấy chú này chú vào chỉ mà đeo trong thân thể, hoặc chú trong nước tro tán sái trên thân. Có các quỷ thần, mị bắt bớ nơi thân, chú chỉ ngũ sắc thường dùng đeo bên mình, tức các quỷ mị này liền xả ly.

Tất cả bịnh hoạn ghẻ, thủng v.v., lấy lá Tất-bát-mạt (một loại lá lốt) hòa với mật chú 21 biến, dùng thoa tức được lành. Các bịnh hoạn về con mắt, nên chú trong hương thủy hoặc cam thảo thủy, Bát-lã-xa thủy 21 biến rồi rửa mắt, tức được trừ lành. Các bịnh về tai mũi, nên chú trong dầu nóng 21 biến, nhỏ vào trong lỗ tai, lỗ mũi tức được trừ lành.

Có các sự đấu tranh, oán cừu, mưu toan, các việc quan sự ép ngặt nên chú trong nước tịnh thủy 21 biến, rửa mặt sái thân, tức được hòa giải.

Khi có tai nạn khởi lên trong các quốc độ, vương đô thành ấp, nên kết đạo tràng, ngưu phẩn đồ địa, nước hương thơm rưới sái khắp nơi trong đạo tràng, ở bốn góc, mỗi góc để một bình, trong bình kia để hoa và nước, lấy cỏ thanh tịnh mới trải khắp đạo tràng, trưng bày những trái ngon quả ngọt, đồ ẩm thực khắp đạo tràng, bày bốn bánh đèn, dầu, hương thơm, tịnh chú thắp lên để bốn góc, lấy các danh hoa rải khắp trong đạo tràng, thiêu đốt thượng diệu hương mà cúng dường. Người tụng chú dùng nước hương thơm tắm rửa thân thể, mặc y mới thanh tịnh, tòa ngồi sạch sẽ, đoan thân chánh niệm tụng Tâm chú này. Nếu chủ nhân chí thành thì tai nạn liền dứt.

Có các tật dịch, yêu quái nổi lên các xứ v.v., chú trong bình nước sái chỗ ấy và thân, tất cả tai hoạn thảy đều trừ diệt. Nếu bị ma mị, lấy nước trong bình, mài Chiên đàn hương chú 21 biến dùng xoa trên tâm, ma mị liền dứt. Nếu thường niệm tụng thần chú tâm này, tứ trọng, ngũ nghịch, báng pháp, các chướng thảy đều trừ diệt. Muốn hộ nước nhà khiến không tai ách, nên lấy hoa sen 108 cái, mỗi cái chú một biến bỏ vào bên trong hỏa đàn cúng dường hiền thánh, tai ách tức diệt, nước nhà yên ổn.

Nếu muốn kẻ khác phát lòng từ tâm không sanh tị hiềm tật đố, nên lấy 108 khúc Chiên đàn hương dài hai tấc Tàu. Mỗi khúc chú một biến, bỏ vào trong hỏa đàn cúng dường hiền thánh, hay khiến cho người kia thương mến mà không sân hận.

Nếu sợ dịch tật quỷ mị bắt bớ nơi thân, nên lấy đổ-da dược, tỳ-đổ-da dược, na-củ-la dược, kiền-đà-na-củ-la dược, bà-thích-ni dược, úm-bạt-da-ba-ni dược, nhân-đạt-la-ba-ni dược, kiền-đà-tất-lị-dạn-cù dược, huyệt-yết-lam dược, nghiên-ngật-la dược, tỳ-sắc-nổ-ngật-lang-đa dược, tố-ma-la-thời dược, tố-nan-đà dược, xà-diên-để-được, bạch đàn hương dược, xá-lị-ma dược, xá-lị-bà dược, yết-tất-để-bà-thích-ni dược, yết-lệ-thứ-ca dược, kiền-đà-hiệt-yết dược, kim cang dược, hắc-lam dược, phiệt-lã-kha-khất-lan-đa dược, các thứ thuốc dược như vậy đâm rất nhỏ và rây cho thật mịn, làm hoàn hình lớn như trái táo chú 108 biến để nơi trên đảnh hoặc đeo nơi hai tay, tật dịch quỷ mị đều không dính thân.

Nếu có trẻ nhỏ bị tà khí vọng lượng làm giật mình sợ hãi, chú trong hoàn thuốc này 108 biến, rồi đeo dưới yết hầu, trẻ không giật mình sợ hãi nữa. Nếu có người nữ bạc phước đã đến tuổi mà mọi người thấy đều chán ghét, chú trong hoàn thuốc này 108 biến hòa trong nước tắm rửa nơi thân, ác tướng đều trừ, mọi người yêu kính, thân uế ác bịnh cũng được trừ lành. Nếu có các người phụ nhơn cầu sanh con trai, chú trong hoàn thuốc này 108 biến đeo trên thân, hoặc hòa với nước mà tắm, liền được sanh con trai.

Nếu chú hoàn thuốc này mà đeo trên thân thì đao độc, thủy hỏa, ác thú, oan gia, ếm mị, cổ đạo, hết thảy tai hoạnh đều không làm hại. Nếu bịnh hoạn ghẻ, ung thư, chú hoàn thuốc này 108 biến hòa với nước thoa chỗ ấy, liền được trừ lành.

 Nếu gặp ác phong bạo vũ, sương muối, mưa đá, chú trong nước thanh tịnh 21 biến, tán sái bốn phương, hoặc chú trong nhánh cây Yết-la-tì-la 21 biến miệng vẫn tụng chú, hướng về bốn phương mà quơ qua lại thiên tai liền đỉnh chỉ.

Ðại thần chú tâm Quán Tự Tại này tuy không thọ trì chỉ y pháp trước mà tụng thì quyết có linh nghiệm. Nếu hay thọ trì thì ra làm sự nghiệp gì, không việc gì mà không thành tựu tốt đẹp. Người muốn thọ trì, lấy lụa trắng mới, dài mưới thước Tàu, rộng năm thước Tàu, nguyên tấm vải không ráp nối, dùng họa tượng Phật, dùng màu sắc hòa với keo hương dẻo, ngoài ra các thứ keo khác không được dùng.

Bên hữu tượng Phật vẽ Quán Tự Tại Bồ-tát giống như Ðại Tự Tại Thiên, đảnh đầu có búi tóc, đội mão hoa, phủ áo phía cánh tay trên bên tả, dùng anh lạc, vòng xuyến để trang nghiêm các phần của thân thể. Vị họa sư cần phải tắm rửa bằng nước hương thơm sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, chớ ăn các món tạp uế, chuyên tinh trai giới, họa vẽ ở nơi tịnh thất. Nên đem tượng này để trong tịnh thất thanh tịnh, nơi trước tượng kia, ngưu phẩn đồ địa bề ngang bề rộng chừng một trượng 90, bốn phương vuông vức bằng nhau, ở nơi trong đàn kia tán rải hoàn toàn hoa trắng. Lấy tám cái bình thanh tịnh, mỗi cái chừng một lít đựng đầy hoa, hương thủy an trí tám phương. Lại ở nơi tám phương đó, trải tám tòa bằng cỏ, trên mỗi tòa để một phần thực; và ở bên tám tòa, mỗi một cái để tám phần thực. Món ăn cúng dường đó phải là những món ngon nhất trên đời được dùng để cúng dường, chỉ trừ ngũ tân, huyết nhục, tửu và các thứ tạp uế vật.

Lại thiêu trầm hương chí thành cúng dường. Người thọ trì chú, trước hết ba ngày ba đêm đoạn thực; nếu không nhịn được, thì chỉ một ngày một đêm không ăn, mỗi ngày ba thời, tắm rửa sạch sẽ. Sau khi đại tiểu tiện, phải tắm gội sạch sẽ, mặc y mới thanh tịnh, ăn ba thứ bạch thực là sữa, bơ và gạo trắng ngon nhất. Ăn rồi súc miệng, xỉa răng sạch sẽ, đi đến trước tượng Phật thiêu trầm thủy hương chí thành đảnh lễ, chuyên tâm tụng Ðại thần chú tâm này mãn 8.000 biến. Bấy giờ hành giả tự thấy thân mình phóng hào quang sáng cũng như hỏa diệm sơn, thấy việc đó rồi vui mừng hớn hở. Lúc ấy Quán Tự Tại liền hiện trước mặt người kia, tùy sở nguyện cầu đều khiến mãn túc.

Nếu muốn tự ẩn, nên chú trong hùng hoàng hoặc an-thiện-na mãn 8.000 biến, nghiền làm bột lấy thoa nơi con mắt. Nếu muốn bay lên hư không, nên dùng bột này xoa dưới chân. Do chú lực này, hành giả chứng Bất Không trí mà làm bậc Thượng thủ Trang nghiêm Ðẳng trí 3. Ðã chứng được định trì này rồi, phàm ra làm sự nghiệp gì hết thảy đều thành tựu tốt đẹp.”

Lúc bấy giờ, đức Thế tôn khen ngợi Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát rằng: “Lành thay, lành thay! Ông nay thương xót tất cả hữu tình mà nói thần chú này để khiến họ đều được lợi ích an vui. Ta càng rất vui mừng”.

Khi Bạc-già-phạm nói lời ấy rồi, Quán Tự Tại Ðại Bồ-tát, Tịnh Cư Thiên chúng, Tự Tại Thiên chúng, Ðại Tự Tại Thiên Chúng, Đại Phạm thiên vươngthiên chúng, Thanh văn và Bồ-tát đều đại hoan hỷ tín thọ phụng hành.

 Bất Không Quyến Tác thần chú tâm kinh
(hết)
Sa-môn Thích Viên Đức dịch từ Hán văn ra Việt văn (1976), bản nháp, chưa chỉnh sửa.

Đánh máy vi tính: Chúc Huy Nguyễn Minh Hoàng, Chúc Hiền Nguyễn thị Diệu Minh.


[1] Bốn đẳng cấp của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ, là Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phệ-xá, Thủ-đà-la.

[2] Cọc để ếm, là một khúc cây ở trên núi, được chuốt nhọn một đầu.

3. Bất Không Diệu Trí Thượng thủ Trang nghiêm đại tam-ma-địa.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12053)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12381)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53062)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35491)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21399)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16849)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12535)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19578)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18656)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12319)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17197)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14617)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13844)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22883)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14558)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11945)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18425)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant