Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phẩm Sám Hối

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13375)
6. Phẩm Sám Hối

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch

6. Phẩm Sám Hối 
(Ăn năn tội trước, chừa bỏ lỗi sau) 

Lúc kia, Đại Sư thấy các quan dân ở Quảng Châu, Thiều Châu, và bốn phương đồng kéo nhau tụ tập trong núi đặng nghe pháp, thì Ngài lên tòa giảng mà bảo chúng rằng: 

“Chư Thiện tri thức, hãy lại gần đây. Việc này phải do trong tánh mình mà khởi ra. Trong cả thảy thời gian, niệm niệm mình phải lóng sạch tâm mình, mình phải trau sửa nết hạnh của mình, mình phải thấy pháp thân của mình, mình phải thấy Phật tâm của mình, mình phải độ và răn lấy mình, thì đến đây mới là hữu ích, chẳng uổng công lao. Các vị đã từ phương xa mà đến, đồng hội hiệp tại chỗ này, ấy là các vị đều có duyên với nhau. Vậy bây giờ các vị cả thảy phải quỳ xuống. Trước hết, ta truyền cho năm phần Chơn Hương của Pháp Thân Trong Bổn Tánh Mình, kế ta truyền pháp Sám Hối Không Tướng (Vô Tướng Sám Hối). 

Cả thảy đồng quỳ. 

Sư nói rằng: “Một là Giới Hương, nghĩa là tâm mình không tưởng điều quấy, không toan việc dữ, không sanh ghen ghét, không sanh tham lam giận hờn, không mong cướp hại của người. Ấy gọi là Giới Hương

Hai là Định Hương, nghĩa là xem thấy các cảnh tướng lành dữ mà tâm mình chẳng tán loạn. Ấy gọi là Định Hương

Ba là Huệ Hương, nghĩa là tâm mình không bị ngăn lấp, mình thường lấy trí huệquán chiếu tánh mình và chẳng tạo các điều dữ. Tuy mình tu các hạnh lànhtâm không chấp trước, thường kính kẻ trên, tưởng kẻ dưới, hay xót thương những kẻ côi cút nghèo nàn. Ấy gọi là Huệ Hương. 

Bốn là Giải Thoát Hương, nghĩa là tâm mình không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, thong thả suốt thông. Ấy gọi là Giải Thoát Hương

Năm là Giải Thoát Tri Kiến Hương, nghĩa là tâm mình tuy đã không đeo níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, nhưng chẳng nên trầm không thủ tịch (đắm vào cảnh không, giữ lòng vắng lặng như loại Vô Ký Không mà trong phẫm Bát Nhã đã có nói). Phải học rộng, nghe nhiều, phải biết Bổn Tâm của mình, phải rõ thông đạo lý của Chư Phật, phải xen lộn trong thế gian mà cứu nhơn lợi vật, không phải nhơn ngã. Phải đạt ngay cõi Chánh Giác, Chơn Tánh không đổi dời. Ấy gọi là Giải Thoát Tri Kiến Hương. 

Chư Thiện tri thức, Chơn Hương này, mỗi phần tự có cái chất xông thơm bên trong, đừng tìm kiếm nơi ngoài. 

Bây giờ ta truyền cho các vị pháp Sám Hối Không Tướng; Pháp này tiêu diệt hết các tội trong ba đời (đời trước, đời nay, và đời sau) khiến cho ba nghiệp (Thân, khẩu, ý) đều được trong sạch

Chư Thiện Tri Thức, hãy đồng xướng lên một lượt và nói theo ta. 

Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ngu mê. Các tội do nghiệp ác ngu mê đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa. 

Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ngạo dối. Các tội do nghiệp ác ngạo dối đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa. 

Chúng đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng nhiễm sự ganh ghét. Các tội do nghiệp ganh ghét đã tạo ra từ trước đều ăn năn, nguyện dứt hết một lần, hằng chẳng gây lại nữa. 

Chư Thiện tri thức, các lời sám hối kể trên gọi là Sám Hối Không Tướng

Sao gọi là Sám? Sao gọi là Hối? 

Sám nghĩa là ăn năn các tội trước của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ganh ghét đã tạo ra từ trước, tất cả ăn năn, hằng chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là Sám. 

Hối nghĩa là ăn năn các lỗi sau của mình. Những tội do các nghiệp ác ngu mê, ngạo dối, ganh ghét tạo ra, nay đã giác ngộ rồi, tất cả đều dứt bỏ đời đời, ngày sau chẳng gây lại nữa. Ấy gọi là hối. 

Cho nên kêu là Sám Hối

 

Các người phàm phu ngu muội chỉ biết ăn năn tội trước của mình, mà chẳng biết ăn năn lỗi sau. Bởi chẳng ăn năn, nên tội trước chưa dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, thì sao gọi là Sám Hối được. 

Chư Thiện tri thức, đã sám hối rồi, bây giờ ta cho các ngươi lập Bốn Điều Thệ Nguyện Lớn. Mỗi người phải dùng tâm chơn chánh mà nghe ta dạy: 

Chúng sanh không giới hạn trong tâm mình đều thề nguyền hóa độ

Cả thảy các điều phiền não chẳng xiết kể trong tâm mình đều thề nguyền dứt bỏ. 

Cả thảy các pháp môn kể không hết trong tánh mình đều thề nguyền học cả. 

Đạo Phật cao hơn hết trong tánh mình thề nguyền tu đến thành công

 

Chư Thiện tri thức, cả thảy các vị há chẳng nói: “Cả thảy chúng sanh không giới hạn trong tâm mình đều thề nguyền hoá độ.”? Thế thì chẳng phải Sư Huệ Năng độ. 

Chư Thiện tri thức, chúng sanh trong tâm mình tức là: Lòng tà mê, lòng giả dối, lòng bất thiện, lòng ganh ghét, lòng ác độc. Các tâm này đều gọi là chúng sanh. Mỗi người phải dùng tánh mình mà độ lấy mình, mới gọi là thiệt độ. 

Cả thảy phiền não chẳng xiết kể đều thề nguyền dứt bỏ, nghĩa là đem Trí Bát Nhã của tánh mình mà dứt bỏ lòng nghĩ tưởng giả dối. Thế mới gọi là thiệt học. 

Đạo Phật cao hơn hết thề nguyền tu đến thành công, nghĩa là đã thường hạ cái tâm, làm việc chơn thành, lìa mê lìa giác, thường sanh Bát Nhã, bỏ chơn trừ vọng, tức khắc thấy tánh Phật. Ấy là nghe nói pháp rồi, liền thành Phật đạo. 

Thường thường tưởng đến việc tu hành là cái chánh pháp tạo nên sức thề nguyện vậy. 

Chư Thiện tri thức, nay đã phát Bốn Điều Thề Nguyền Lớn rồi, ta lại truyền cho các vị Lời Răn Dạy Về Pháp Quy Y Không Tướng

Chư Thiện tri thức, phải quy y ba pháp này: 

Hãy quy y các Diệu Giác của tánh mình là pháp tôn quý gồm đủ cả hai công đức
Hãy quy y cái Chánh Pháp của tánh mình là pháp tôn quý lìa bỏ các điều tà dục
Hãy quy y cái Thể Thanh Tịnh của tánh mình là pháp tôn quý nhất trong các hạnh. 
 

Từ đây sắp sau, hãy xưng Giác là Thầy, chẳng nên quy y theo tà ma ngoại đạo. Hãy lấy ba pháp báu của tánh mình mà tự thường chứng tỏ các công đức của mình. Ta khuyên Chư Thiện tri thức phải quy y theo ba pháp báu của tánh mình là: 1. Phật nghĩa là Giác, 2. Pháp nghĩa là Chánh, 3. Tăng nghĩa là Tịnh. 

Tâm mình quy y theo tánh Giác, thì tà mê chẳng sanh. Lại ít có sự ham muốn, thường biết đủ dùng, lìa được của tiền và sắc dục, gọi là pháp tôn quý gồm cả hai công đức

Tâm mình quy y tánh Chánh, thì niệm niệm không sanh tà kiến. Bởi không tà kiến, nên không có lòng nhơn ngã cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Pháp tôn quý lìa bỏ các điều tà dục 

Tâm mình quy y theo tánh Tịnh, thì cả thảy các cảnh giới trần lao, ái dục, tâm mình chẳng nhiễm chẳng vương, gọi là pháp tôn quý nhất trong các hạnh. 

Tu các hạnh này, ấy là mình quy y Bổn Tánh của mình. Các người phàm phu từ ngày tới đêm nói rằng chịu tu theo ba Quy Giới, mà chẳng hiểu lý quy y. Nếu nói quy y Phật, thì Phật ở xứ nào? Bằng không thấy Phật, thì quy y chỗ nào? Nói thế thành ra giả dối

Chư Thiện tri thức, mỗi người hãy tự xem xét, chớ lầm dùng tâm ý. Kinh văn nói rõ quy y Phật ở tánh mình, chớ chẳng nói quy y Phật nơi nào khác. Phật ở tánh mình mà chẳng quy y, thì không có chỗ nào mà quy y vậy. 

Nay các vị đã tự ngộ, thì mỗi người phải quy y ba pháp báu ở tâm mình. Trong phải điều tâm tánh, ngoài phải kính mọi người, tức là mình quy y tâm mình vậy. 

Chư Thiện tri thức, đã quy y ba pháp báu ở tánh mình rồi, các vị hãy chí tâm, ta nói cho mà rõ cái pháp Phật Một Thể Ba Thân Trong Tánh Mình, khiến cho các vị thấy ba thân rõ ràng, tự tánh mình tỏ sáng tánh mình. 

Cả thảy hãy đồng nói theo ta: 

Tự sắc thân mình quy y Thanh Tịnh Pháp Thân Phật 

Tự sắc thân mình quy y Viên Mãn Báo Thân Phật 

Tự sắc thân mình quy y Thiên Bá Ức Hóa Thân Phật 

 

Chư Thiện tri thức, sắc thân là quán xá, không thể nói quy y được. Phải dòm ngó Phật Ba Thân trong tánh mình. Người thế gian đều có Phật Ba Thân. Bởi tâm mình mê muội, nên không thấy thể sáng suốt trong tánh mình. Người ta cứ tìm Phật Ba Thân ở ngoài, mà chẳng thấy Phật Ba Thân ở trong thân của mình. Các vị nghe ta nói, khiến các vị ngó trong thân mình và thấy Bổn Tánh mình có Phật Ba Thân. Phật Ba Thân này do nơi tánh mình mà sanh, chớ chẳng phải do nơi ngoài mà tìm đặng. 

Sao gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật? Bổn tánh của người thế gian vốn trong sạch. Muôn pháp đều do nơi bổn tánh mình mà sanh: Nghĩ tính các điều dữ, liền sanh hạnh dữ. Nghĩ tính các hạnh lành, liền sanh hạnh lành. Thế thì, các pháp trong tánh mình, ví cũng như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng vì bị mây che nên trên sáng dưới tối. Thình lình gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, thì muôn hình ngàn tượng đều hiện ra. Tánh của người thế gian thường hay dời đổi cũng như mây trên trời kia vậy 

Chư Thiện tri thức, Trí như mặt trời, Huệ như mặt trăngTrí Huệ thường sáng, nhưng bởi tâm dính níu cảnh vật ở bên ngoài, rồi bị mây vọng niệm của mình che án tánh mình, nên Trí Huệ chẳng đặng tỏ sáng. Nếu gặp bạn Thiện tri thức, nghe người giảng chánh pháp, rồi tự mình dứt các điều mê hoặc, trong ngoài sáng thấu, thì trong tánh, muôn pháp đều hiện ra rõ ràng. Người thấy tánh cũng giống như thế. Ấy gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật

Chư Thiện tri thức, tâm mình quy y tánh mình. Ấy là quy y Chơn Phật. Tự mình quy y, nghĩa là dứt trừ hết các tật xấu trong tâm mình là: Lòng chẳng lành, lòng ganh ghét, lòng tà vạy, lòng vị ngã, lòng giả dối, lòng khi người, lòng nhạo người, lòng tà kiến, lòng cống cao, cùng các hạnh bất thiện trong cả thảy thời gian, lại thường thấy lỗi mình, chẳng nói việc tốt xấu của người. Ấy là tự mình quy y tánh mình vậy. 

Thường hạ tâm mình, cung kính mọi người, thấy tánh sáng suốt, không ngưng trệ. Ấy là tự mình quy y tánh mình. 

Sao gọi là Viên Mãn Báo Thân Phật? Tỷ như một cái đèn có thể trừ được chỗ tối đã có từ ngàn năm, một cái trí có thể diệt được sự ngu đã nhiễm từ muôn thuở. Đừng nghĩ đến việc trước, chẳng đặng nghĩ đến việc đã qua rồi, thường nghĩ đến việc về sau. Niệm niệm hoàn toàn sáng suốt và tự mình thấy Bổn tánh mình. Điều lành điều dữ tuy là khác nhau, chớ cái Bổn tánh không hai. Cái tánh không hai gọi là Thật Tánh. Trong cái Thật Tánh chẳng nhiễm điều lành điều dữ, ấy gọi là Viên Mãn Báo Thân Phật

Tánh mình khởi một niệm dữ, thì tiêu hết muôn kiếp hột giống lành. Tánh mình sanh một niệm lành, thì hằng hà sa tội dữ đều diệt hết và chứng ngay quả Vô Thượng Bồ ĐềNiệm niệm mình thấy tánh mình, chẳng sai bổn niệm. Ấy gọi là Báo Thân

Sao gọi là Thiên Bá Ức Hóa Thân Phật? Nếu chẳng nghĩ đến muôn pháp, thì tánh vốn như trống không. Một niệm nghĩ tính, gọi là biến hóa: Nghĩ tính điều dữ, hóa làm Địa Ngục. Nghĩ tính việc lành, hóa làm Thiên Đường. Lòng độc hại hóa ra rồng rắn. Lòng từ bi hóa ra Bồ Tát. Lòng Trí Huệ hóa làm Thượng Giới, lòng ngu si hóa làm Hạ Phưong. Cái tánh của mình biến hóa rất nhiều. Người mê, không tỉnh giác được, nên niệm niệm gây ra việc dữ, thường thường theo đường dữ. Nếu trở lại khởi một niệm lành, thì Trí Huệ thường sanh. Ấy gọi là Tự Tánh Hóa Thân Phật. 

Chư Thiện tri thức, cái Pháp thân vốn là đầy đủ. Niệm niệm tánh mình tự nhiên hiện ra tỏ sáng, tức là Báo Thân Phật. Do cái Báo Thân nghĩ tính tức là Hóa Thân Phật. 

Mình tự ngộ tự tu các công đức trong tánh mình, mới thiệt là quy y. Chứ da thịtsắc thân, sắc thân là nhà trọ tạm bợ, không thể nói là quy y được. Nếu mình hiểu rõ Ba Thân trong Tánh mình, tức là mình biết Phật trong tánh mình vậy. 

Ta có một bài tụng không tướng. Nếu năng trì tụng, thì khi dứt lời, các tội ngu mê của các vị chất chứa trong muôn kiếp trước đồng tiêu diệt hết một lần 

Tụng rằng: 

(Bản dịch của HT Thích Từ Quang

Người mê tu phước chẳng hành đạo 

Chỉ nói tu phước ấy là đạo 

Bố thí cúng dường, phước vô cùng 

Ba ác trong tâm gốc còn tạo 

Tưởng rằng tu phước, tội được tiêu 

Đời sau được phước, nhưng còn tội 

Chỉ trừ tội-nghiệp ở nội tâm 

Mới thật tự tánh chơn sám hối 

Bỏ tà làm chánh là không tội 

Học đạo, hằng xem ở tự tánh 

Các Phật cùng ta đồng một loại 

Tổ xưa chỉ truyền Đốn Pháp này 

Nguyện cho chúng sanh đồng thấy tánh 

Nếu muốn về sau thấy pháp thân 

Lìa các pháp tướng, rửa lòng sạch 

Gắng công tự thấy, chớ thờ ơ 

Dứt tuyệt niệm sau, một đời rảnh 

Ngộ được Đại Thừa, thấy tự tánh 

Chấp tay cung kính chí tâm cầu 

 
Sư nói: “Chư Thiện tri thức, cả thảy phải tụng bài kệ này, và y theo lời dạy trong đó mà tu hành. Tụng rồi phải liền thấy tánh. Được như thế, tuy cách ta ngàn dặm, cũng như thường ở bên ta. Còn tụng rồi mà tâm không giác ngộ, thì dầu ở trước mặt ta, cũng như cách xa ngàn dặm. Há cần từ phương xa mà đến đây! Khá trân trọng và giữ lấy.” 

Đại chúng nghe pháp, tâm tánh đều mở mang tỏ sáng. Cả thảy đồng vui vẻ vâng làm theo lời dạy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14751)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11821)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12756)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10338)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12064)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15289)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11076)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10532)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12468)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16424)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14305)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11782)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14795)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12025)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16848)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11584)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12731)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11341)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12056)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52110)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15463)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13964)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11440)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13169)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12782)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13218)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12444)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12649)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54198)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14424)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9928)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13824)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57962)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14493)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20135)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13775)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15397)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17486)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13310)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11922)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13482)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14658)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12486)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12155)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12060)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13287)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12537)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13656)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13321)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25592)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12176)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14555)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11859)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42071)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28330)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38798)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14718)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12687)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16237)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant