Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Phẩm Cơ Duyên

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12869)
7. Phẩm Cơ Duyên

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch

7. Phẩm Cơ Duyên 
(Nói về căn cơ và duyên phần của các đệ tử

Đại Sư từ khi đắc pháp tại Huỳnh Mai đến lúc trở về làng Tào Hầu thuộc Thiều Châu, thì chẳng có ai hay biết. 

Một khi kia có người học Nho tên là Lưu Chí Lược lấy lễ mà đãi ngài rất hậu. Chí Lược có một người cô làm Tỳ khưu ni (cô vãi), tên Vô Tận Tạng, thường tụng kinh Đại Niết Bàn. Sư nghe qua, liền hiểu chỗ diệu nghĩa, mới giải cho Ni cô nghe. Ni cô cầm quyển kinh lại hỏi chữ. 

Sư nói: “Chữ thì ta không biết, vậy xin hỏi nghĩa.” 

Ni cô nói: “Chữ còn chẳng biết, đâu hiểu nghĩa.” 

Sư nói: “Cái diệu lý của chư Phật chẳng có quan thiết gì với văn tự.” 

Ni cô hãi kinh và lấy làm lạ. Ni cô bèn rao khắp cho các bực kỳ đức (người tuổi cao đức trọng) trong xóm hay rằng Đại Sư là bậc đạo đức, nên thỉnh về mà cúng dường

Khi ấy có huyền tôn (cháu bốn đời) của Ngụy Võ Hầu tên là Tào Thúc Lương cùng các người cư dân tranh nhau đến làm lễ Đại Sư

Lúc bấy giờ, chùa cũ Bửu Lâm đã bị bỏ hư, vì bị nạn binh hỏa từ cuối đời nhà Tùy. Nơi chỗ nền cũ, các thiện tín hiệp nhau cất cảnh chùa lại, rồi rước Đại Sư về ở, chẳng bao lâu thành một ngôi Bửu phường. 

Sư ở chùa này hơn chín tháng, lại bị bọn ác nhơn tìm theo. Sư bèn lánh mình ẩn trong phía núi trước chùa, thì bị bọn ấy phóng hỏa đốt rụi cỏ cây. Sư ráng sứcchun vào kẹt đá, nên mới thoát nạn. Nơi tảng đá nay còn dấu đầu gối Ngài ngồi kiết già và lằn vải áo. Nhơn đó mới gọi là “Tảng đá lánh nạn.” 

Sư nhớ lại lời Ngũ Tổ dặn nơi Hoài Tập và Huyện Tứ Hội, ngài mới đi ẩn hai xứ ấy. 
 
 

Pháp Hải

Thầy tăng tên Pháp Hải, người ở Khúc Giang, thuộc tỉnh Thiều Châu, ban sơ đến viếng Tổ Sư và hỏi rằng: “Tức Tâm Tức Phật là nghĩa sao? Xin Đại Sư chỉ dạy.” 

Sư dạy: “Niệm trước chẳng sanh là tức tâm. Niệm sau chẳng diệt là tức Phật. Tạo nên cả thảy các tướng là tức tâm, lìa đứt cả thảy các tướng là tức Phật. Nếu ta nói cho đủ điều, thì cùng kiếp nói cũng chẳng hết. Hãy nghe ta kệ: 

Tức Tâm ấy Huệ 
Tức Phật là Định 
Định Huệ gồm tu 
Ý Tâm phải tịnh 
Hiểu pháp môn này 
Tự ngươi tập tánh 
Dụng vốn không sanh 
Song tu mới chánh 

Pháp Hải nghe kệ rồi, liền đại ngộ, làm kệ khen rằng: 

Tức Tâm là Chánh Phật 
Chẳng hiểu, tự khinh xuất 
Định Huệ, biết nguyên nhơn 
Song tu, lìa các vật 

Sư Pháp Đạt

Thầy tăng tên Pháp Đạt, người ở tỉnh Hồng Châu, xuất gia hồi bảy tuổi và thường tụng kinh Pháp Hoa. Một khi đến làm lễ Tổ Sư, Pháp Đạt cúi đầu không sát đất

Tổ Sư quở rằng: “Lạy mà cúi đầu không sát đất, sao bằng chẳng lạy. Trong lòng ông chắc có một vật, ông chất chứa việc chi vậy ?” 

Pháp Đạt nói: “ Tôi đã niệm Kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ rồi.” 

Tổ nói: “Nếu ông niệm đến một muôn bộ, hiểu đặng ý kinh mà chẳng lấy đó gọi là hơn người, thì mới cùng ta đi một con đường. Ông nay cậy lấy sự nghiệp ấy, mà chẳng biết lỗi mình. 

Hãy nghe ta kệ: 

Lạy, vốn phá màn kiêu 
Đầu sao không sát đất 
Hữu Ngã, tội liền sanh 
Quên công phước lớn thật. 

Sư lại hỏi: “Ông tên gì?” 
Đáp: “Pháp Đạt.” 
Sư nói: “Ông tên là Pháp Đạt, nào có đạt pháp !” 

Sư lại nói kệ rằng: 

Ông tên là Pháp Đạt 
Siêng tụng hoài, không dứt 
Tụng khống theo âm thinh 
Minh tâm mới gọi Phật 
Ông nay bởi có duyên 
Ta mới nói chơn pháp 
Tin chắc, Phật không lời 
Liên Hoa do miệng phát. 
 

Pháp Đạt nghe kệ rồi, liền ăn năn xin lỗi, thưa rằng: “Từ nay sắp sau, tôi giữ hạnh khiêm tốn và cung kính mọi người. Đệ tử tụng kinh Pháp Hoa mà chưa hiểu nghĩa, tâm thường có chỗ nghi. Hòa Thượngtrí huệ quảng đại, xin Ngài lược giải nghĩa lý trong kinh.” 

Sư nói: “Pháp Đạt, Pháp rất thấu suốt, tại lòng ông không thấu suốt. Kinh vốn không có chỗ nghi, tại lòng ông tự nghi. Ông niệm kinh ấy, lấy gì làm tông (căn bổn)?” 

Pháp Đạt nói: “Kẻ học này căn tánh ám độn, bấy lâu chỉ y theo chữ mà tụng niệm, há biết cái thú (chỗ xu hướng về căn bổn) là gì !” 

Sư nói: Ta không biết chữ, ngươi thử lấy kinh tụng một biến, ta giải nghĩa cho ngươi rõ.” 

Pháp Đạt liền cất tiếng tụng lớn, đến phẩm Tỉ Dụ, sư bảo thôi và nói rằng: “Bộ kinh này nguyên lấy cái Nhơn Duyên Xuất Thế làm Tông, dẩu có nói bao nhiêu Tỉ Dụ, cũng không vượt ngoài chỗ ấy. Nhơn duyên nào? Kinh nói Chư Phật Thế Tôn chỉ do cái Nhân Duyên về một việc lớn mà xuất hiện nơi thế gian. Việc lớn ấy là cái Tri Kiến Phật vậy. Người thế gian, ngoài mê thì dính tướng, trong mê thì dính không. Nếu đối với tướng mà lìa tướng, đối với không mà lìa không, thì trong ngoài chẳng mê.” 

Đại Sư nói: “Nếu hiểu rõ phép này, một niệm tâm mở sáng, ấy là mở cái Tri Kiến Phật. Phật đây, nghĩa là Giác Ngộ, chia ra làm bốn môn: 

Mở cái tánh thấy biết Giác Ngộ
Chỉ cái tánh thấy biết Giác Ngộ 
Tỏ cái tánh thấy biết Giác Ngộ 
Vào cái tánh thấy biết Giác Ngộ 

Nếu nghe người giảng thuyết, Mở Chỉ tánh lý cho, mới có thể Tỏ mà Vào. Cái tánh Thấy Biết Giác Ngộ vốn phải do nơi Chơn Tánh, mới phái hiện ra được. Ông khá cẩn thận, chớ lầm hiểu ý kinh, thấy người ta nói Mở, Chỉ, Tỏ, Vào, mà cho đó là “cái Biết Thấy của Phật, chớ chúng ta không có duyên phần đạt sự Biết Thấy ấy.” Nếu hiểu như thế, tức là chê kinh nhạo Phật. Ngài kia đã là Phật, có đủ sự biết thấy, cần gì phải mở! Ngươi nay phải tin rằng cái Biết Thấy Giác Ngộ chỉ do nơi tự tâm của người, chớ chẳng phải do Phật nào khác. Cả thảy chúng sanh vì tự che lấp tánh quang minh của mình, ham mến trần cảnh, ngoài bị dính vương, trong bị rối rắm, nên đành phải chịu sự phiền não cuốn lôi. Bởi vậy mới nhọc lòng Đức Thế Tôn, Ngài phải xuất Chánh Định, dùng biết bao nhiêu lời lẽ mà khuyên chúng sanh dứt bỏ lòng ham mến, phải do tâm mình mà mở cái Biết Thấy Giác Ngộ, đừng do bề ngoài mà tìm, thì cũng đồng chứng quả như Phật. Thế cho nên gọi là “Mỡ cái biết thấy giác ngộ”. Ta cũng khuyên cả thảy các chúng nhơn do trong tâm mình mà thường “Mở cái tánh biết thấy giác ngộ.” 

Người thế gian vì lòng tà vạy, ngu mê, tạo ra các tội lỗi, miệng lành, lòng dữ, ham giận, ghét ghen, siễm nịnh, kiêu căng, lấn người, hại vật. Ấy là tự mình “Mở cái tánh biết thấy chúng sanh”. Nếu giữ được lòng chơn chánh, thường sanh trí huệ, xem xét tâm mình, làm lành lánh dữ, thì mình tự “Mở cái tánh biết thấy giác ngộ” vậy. 

Vậy thì niệm niệm ông phải Mở cái tánh biết thấy Phật, đừng Mở cái tánh thấy biết chúng sanh. Mở cái tánh biết thấy Phật tức là ra khỏi thế gian; Mở cái tánh biết thấy chúng sanh tức là thế gian vậy. Còn nếu ông cứ nhọc công cố chấp tụng niệm, mà lấy làm công khóa, thì khác nào con mao ngưu (loài trâu đen có lông dài) yêu lông đuôi dài của nó! 

 Phát Đạt nói: “Nếu vậy, hiểu đặng nghĩa, thì chẳng cần tụng kinh?” 

 Sư nói: “Kinh có lỗi gì, há lại ngăn cấm người tụng? Vả lại, mê ngộ là tại nơi người, lợi hại cũng tại nơi người. Miệng tụng mà tâm làm theo nghĩa kinh, tức là mình chuyển kinh. Miệng tụng mà tâm chẳng làm theo nghĩa kinh, tức là mình bị kinh chuyển. Hãy nghe ta kệ: 

Tâm mê, Pháp Hoa chuyển 
Tâm ngộ, chuyển Pháp Hoa 
Tụng kinh không rõ ý, 
Nghĩa ấy thành thù ta 
Không niệm, niệm mới chánh 
Có niệm, niệm thành tà 
Có, Không đều chẳng chấp 
Cởi mãi, bạch ngưu xa 

Pháp Đạt nghe kệ, buồn bực khóc mùi. Khi Sư nói dứt lời liền được đại ngộ, và bạch rằng: 

“Pháp Đạt từ xưa đến nay, thật chưa từng chuyển Pháp Hoa, mà bị Pháp Hoa chuyển.” 

Lại bạch rằng: “Kinh nói các Đại Thanh Văn cho đến Bồ Tát đều suy nghĩđộ lượng tột cùng, mà chẳng lường đặng cái trí Phật. Nay bảo kẻ phàm phu tỏ sáng tâm mình, mới gọi là tri kiến Phật. Nhưng tự họ chẳng phải là bậc thượng căn, ắt không khỏi sanh ra ngờ vực và nhạo cười.” 

Pháp Đạt nói tiếp: “Kinh lại nói ba xe: Xe dê, xê nai, xe trâu, và xe trâu trắng. Ba xe này khác nhau thế nào, xin Hòa Thượng chỉ dạy cho.” 

Sư rằng: “Ý kinh thật rõ ràng, tự người làm cho mờ ám và trái ngược. Các người trong ba thừa chẳng lường được trí Phật, cái hại ấy là do chỗ độ lượng. Hễ họ càng cùng suy cạn nghĩ, thì càng làm chuyển biến và xa trí Phật. Đức Phật vốn vì kẻ phàm phu mà nói kinh, chớ chẳng phải vì Phật mà nói. Cái lý ấy, nếu chẳng chịu tin thì tự ý họ thối tịch(Không tin lời Phật giảng, bỏ chỗ ngồi mà đi). 

Sao chẳng biết mình đã ngồi trên xe trâu trắng mà lại đi tìm ba xe ở ngoài cửa? huống chi kinh văn đã nói rõ cho người biết duy có một Phật Thừa, chớ không có thừa nào khác. Bằng kinh nói hai nói ba, cho đến vô số phương tiện, muôn vàn nhơn duyên, tỉ dụ, ngôn từ, thì các pháp ấy cũng đều chỉ một Phật Thừa mà thôi. Sao ông chẳng xét rằng thừa là giả, là nói vì lúc xưa (ví thật mà dụng quyền), còn một thừa là thật, là nói vì ngày nay(mở quyền mà chỉ thật). Ấy gọi là chỉ dạy người bỏ giả về thật mà thôi. Sau khi về thật rồi, thì cái thật cũng không còn có cái tên nữa. 

Phải biết rằng của quý báu sở hữu đều thuộc về của người thọ dụng; Lại cũng chẳng nên tưởng đó là của cha, cũng chẳng nên tưởng đó là của con, cũng chẳng nên tưởng đến chỗ thọ dụng của ấy. Thế mới gọi là Trì Kinh Pháp Hoa 

Từ kiếp này qua kiếp nọ, tay chẳng mở cuốn kinh, nhưng từ ngày tới đêm, không có lúc nào mà chẳng niệm vậy. 

Pháp Đạt nhờ Sư mở trí, khôn xiết vui mừng, bèn làm kệ khen rằng: 

Công tụng ba ngàn bộ 
Thầy giảng chút, liền quên 
Ý lìa đời chẳng rõ 
Nào dứt kiếp khùng điên 
Tạm lập Tam Thừa Giáo 
Tùy duyên, diễn pháp huyền 
Ai tưởng trong nhà lửa 
Pháp Vương, hiện nhãn tiền 

Sư nói: “Từ đây sắp về sau, ông mới có thể gọi là thầy tăng niệm kinh vậy.” 

Pháp Đạt từ khi lãnh hội được cái ý chỉ diệu huyền của Đại Sư, thì cũng giữ việc tụng kinh hoài chẳng bỏ 

Trí Thông

Thầy tăng tên Trí Thông, người ở huyện An Phong, xứ Thọ Châu, buổi đầu xem kinh Lăng Già ước đặng một ngàn biến, mà không hiểu nghĩa ba thân, bốn trí. Người đến lạy Đại Sư mà cầu giải nghĩa kinh. 

Sư nói : 

Ba thân là: 

Thanh Tịnh Pháp Thân là cái Tánh của người 
Viên Mãn Báo Thân là cái Trí của người 
Thiên Bá Ức Hóa Thân là cái Hạnh của người 
Nếu lìa cái Bổn Tánh mà nói riêng ba thân, tức gọi là có thân không trí. Bằng hiểu ba thân không có tự tánh riêng, tức gọi là Bốn Trí Bồ Đề

Hãy nghe ta kệ : 

Tự tánh đủ ba thân 
Phát minh thành bốn trí 
Chớ lìa chỗ thấy nghe 
Siêu nhiên đăng Phật vị 
Ta nói rõ ông nghe 
Xét tin, mê khỏi hại 
Chớ học kẻ cầu ngoài 
Bồ Đề chỉ luận mãi 

Trí Thông lại bạch rằng : "Cái nghĩa Bốn Trí có thể được nghe chăng?" 

Sư nói: "Đã hiểu ba thân thì rõ bốn trí, sao lại hỏi nữa? Nếu lìa ba thân mà nói riêng bốn trí, ấy gọi là có trí không thân, tức là có trí trở lại thành không trí." 

Sư lại nói kệ rằng: (bản dịch của HT Từ Quang

Đại Viên Cảnh Trí, Tánh thanh tịnh
Bình Đẳng Tánh Trí, Tâm không bịnh 
Diệu Quan Sát Trí, thấy chẳng công 
Thành Sở Tác Trí, đồng viên cảnh 
Năm, tám, sáu, bảy, chuyễn quả nhơn 
Chỉ dùng danh ngôn, không thiệt tánh 
Nếu chỗ chuyển ấy, chẳng lưu tình 
Phiền hưng, vẫn trụ Na Dà định 
Trên đây là nói chuyển tám thức làm bốn trí. Kinh giáo có nói: 
Chuyển năm thức trước, làm Trí Thành Sở Tác 
Chuyển thức thứ sáu làm Trí Diệu Quán Sát 
Chuyển thức thứ bảy làm Trí Bình Đẳng Tánh 
Chuyển thức thứ tám làm Trí Đại Viên Cảnh 

Thức thứ sáu và thức thứ bảy chuyển ở nhân; Năm thức và thức thứ tám chuyển ở quả, nhưng chỉ chuyển danh chứ không chuyển thể. 

Trí Thông nghe rồi, tánh trí liền tỏ sáng, mới trình kệ rằng: 

Ba thân vốn thiệt tại thân ta 
Bốn trí là tâm sáng hiện ra 
Thân, trí, thung dung, không trở ngại 
Vật hình, ứng hiện mặc dầu ta 
Khởi tâm tu trị, thành mê động 
Giữ ý trụ an, dấy ngụy tà 
Nhờ Tổ giải minh thông ý diệu 
Trược Nhơ nào có, tiếng bày ra. 

Sư Trí Thường

Thầy tăng tên Trí Thường, người ở huyện Qui Khuê, phủ Tín Châu, xuất gia hồi bảy tuổi, có chí cầu thấy tánh. Một ngày kia, thầy đến làm lễ Tổ Sư

Tăng hỏi rằng: "Mới đây, kẻ học giả này có qua Hồng Châu, lên núi Bạch Phong mà làm lễ Đại Thông Hòa Thượng (Sư Thần Tú) và cầu chỉ nghĩa thấy tánh thành Phật, nhưng chưa giải quyết được chỗ nghi ngờ. Tôi từ phương xa đến làm lễ, cúi xin Hòa Thượng từ bi chỉ dạy." 

Sư nói: "Đại Thông Hòa Thượng nói những lời gì, câu gì, ông hãy kể thử coi." 

Tăng bạch: "Trí Thường này đến đó, trải qua ba tháng, mà chưa được sư chỉ dạy. Nóng lòng vì Pháp, đêm kia một mình vào trượng thất xin hỏi Bổn Tâm Bổn Tánh là gì? Sư Đại Thông hỏi: "Ông thấy cõi trống không chăng?" Tôi đáp: "Thấy". Sư hỏi: "Cõi trống không có tướng mạo chăng?" Tôi đáp: "Cõi trống không chẳng có hình đâu có tướng mạo! ". Sư đáp: "Cái Bổn Tánh của người cũng giống như cõi trống không: Rốt ráo không có một vật gì mà thấy được, ấy gọi là chánh kiến. Rốt ráo không có một vật gì mà biết được, ấy gọi là chơn trí; Rốt ráo không có xanh, vàng, dài, ngắn, chỉ thấy cái Bổn Nguyên Thanh Tịnh và cái Giác Thể Viên Minh. Như thế tức gọi là Thấy Tánh Thành Phật, cũng gọi là Như Lai Tri Kiến." Kẻ học này tuy nghe nói như vậy, nhưng cũng chưa thấy hiểu thấu đáo, xin Hòa Thượng chỉ dạy." 

Sư nói: "Chỗ Đại Thông nói đó cũng còn sự Thấy-Biết, nên khiến tâm ngươi chưa hiểu thấu. Nay ta chỉ cho ông một bài kệ

Chẳng thấy một pháp, giữ "Không Thấy" 
Ví như đám mây che mặt trời 
Chẳng biết một pháp, giữ "Không Biết" 
Ví như trong không sanh điện nháy 
Những cái "Thấy - Biết" thoạt khởi lên 
Không rõ phương tiện, nên nhận quấy 
Một niệm ông tự biết cái sai 
Ánh sáng tự tâm thường hiển hiện 
 

Trí Thường nghe rồi, tâm ý suốt thông, bèn làm kệ rằng: 
 

Thoạt nhiên khởi thấy biết 
Trước tướng tìm Bồ Đề 
Tình còn một niệm "Ngộ" 
Khó thoát mê thời xưa 
Nguồn chánh giác Tự Tánh 
Soi quấy luống trôi lăn 
Không vào được nhà Tổ 
Khó khỏi lạc hai nơi 
 

Một hôm Trí Thường hỏi Tổ: "Bạch Hòa Thượng, Phật đã nói Pháp Ba Thừa, tại sao còn nói Pháp Tối Thượng Thừa nữa, đệ tử chưa rõ, cầu xin Hòa Thượng chỉ dạy." 

Sư nói: "Ông hãy xem cái Bổn Tánh của ông, đừng cố chấp cái tướng của Pháp ở ngoài. Pháp vốn không có bốn thừa, chỉ cái tâm của người thế gian có nhiều bậc khác nhau. 

Căn cứ ở chỗ thấy nghe mà đọc tụng kinh điển là người Tiểu Thừa. Hiểu pháp rõ nghĩa, là bực Trung Thừa. Y theo pháp mà tu hành là người Đại Thừa. Muôn pháp đều thông, muôn pháp gồm đủ cả thảy chẳng nhiễm, lìa các pháp tướng, một mảy không chỗ sở đắc là bậc Tối Thượng Thừa. Thừa có nghĩa là tâm thiệt hành theo Đạo, chớ chẳng phải chỗ miệng tranh cải biện bạch

Ông phải tự tu, đừng hỏi ta vậy. Trong cả thảy thời gian, tánh mình giữ thanh tịnh tự nhiên như nhiên." 

Trí Thường làm lễ tạ ơn, theo hầu hạ Đại Sư đến trọn đời ngài. 

Sư Chí Đạo

Thầy tăng tên Chí Đạo, người ở Huyện Nam Hải, tỉnh Quảng Châu, đến cầu chỉ dạy và bạch rằng: 

"Kẻ học này từ khi xuất gia, xem kinh Niết Bàn có trên mười năm mà chưa hiểu đại ý, xin Hòa Thượng chỉ dạy." 

Sư nói: "Có chỗ nào mà người chưa hiểu?" 

Tăng bạch: "Các sự hành động của tâm đều "không thường", ấy là pháp sanh diệt. Sanh diệt dứt rồi, vắng lặng là vui. Trong các điều ấy, đệ tử có chỗ nghi ngờ." 

Sư nói: "Bởi cớ nào mà ngươi sanh nghi?" 

Tăng bạch: "Cả thảy chúng sanh đều có hai thân là sắc thânpháp thân. Sắc thân không có thường tồn, có sanh có diệt. Pháp thân là thường tồn, không hay không biết. Kinh nói: "Sanh diệt dứt rồi, vắng lặng là vui.", chẳng biết thân nào vắng lặng, thân nào hưởng sự vui? Nếu là sắc thân, thì lúc sắc thân tiêu diệt, bốn chất rã tan, toàn nhiên là khổ. Mà khổ thì không thể nói vui được. Còn nếu là Pháp thân, thì tức là Pháp thân vắng lặng, tức giống như loài cỏ cây, ngói gạch. Thế thì cái chi hưởng sự vui? Lại Pháp tánh là cái thể của sự sanh diệt, năm uẩn là cái dụng của sự sanh diệt. Một cái thể, năm cái dụng, sanh diệt là thường: Sanh thì do thể mà khởi ra dụng, diệt thì thâu dụng về thể. Nếu chịu sanh trở lại, tức là loài có tình, tâm niệm chẳng dứt chẳng tắt. Nếu chẳng chịu sanh trở lại, thì về cảnh vắng lặng đời đời, đồng với vật vô tình. Thế thì cả thảy các Pháp đều bị Niết Bàn ngăn chế, còn chẳng đặng sanh, có gì là vui." 

Sư nói: "Ông là con nhà Thích, sao lại tập theo chỗ tà kiến (chấp Đoạn Kiến hay Thường Kiến) của người ngoại đạo mà bàn qua pháp Tối Thượng Thừa? Cứ theo chỗ ông nói, thì ngoài cái sắc thân riêng có cái Pháp thân, lìa chỗ sanh diệt, cầu nơi tịch diệt, lại nghĩ cảnh Niết Bàn là thường vui, nói rằng có cái thân thọ hưởng. Ấy là cố chấp tiếc thương chỗ sống chết quá nhiễm sự vui sướng thế gian

Ông nay phải biết, Phật thấy cả thảy các người mê muội, nhận năm uẩn hòa hiệp làm các tướng của thân mình, phân biệt cả thảy các pháp là các tướng của thế gian ở ngoài, ưa sống ghét chết, niệm niệm đổi dời, chẳng biết sự mộng huyễn giả dối, luống chịu sanh tử luân hồi, lấy cảnh Thường Vui Niết Bàn đổi lại làm Trạng Tướng Khổ Não và trọn ngày chỉ cầu ở ngoài. 

Vì đó, Ngài mới động lòng thương xót mà chỉ cái Thiệt Vui Của Niết Bàn, trong một sát na không có tướng sanh, trong một sát na không có tướng diệt, lại cũng không có sự samh diệt gì mà nên tắt dứt. Ấy là cái tâm vắng lặng hiện ra rõ ràng. Đương lúc cái tâm vắng lặng hiện ra rõ ràng, cũng không nghĩ tới chỗ hiện ra đó. Ấy gọi là Thường Vui. 

Sự Thường Vui ấy không có thọ cảm, cũng không có chỗ chẳng thọ cảm, há có cái tên "Một Thể Năm Dụng" hay sao? Hà huống lại nói "Niết Bàn ngăn chế các pháp khiến cho đời đời chẳng sanh !" Ấy là nhạo Phật chế Pháp vậy. Hãy nghe ta kệ (Bản dịch của HT TTQ): 

Vô Thượng Đại Niết Bàn 
Tròn sáng, thường tịch chiếu 
Phàm phu cho là chết 
Ngoại đạo chấp làm đoạn 
Các kẻ cầu nhị thừa 
Cho rằng: Không Tạo Tác 
Suy xét theo vọng tình 
Sáu mươi hai tà kiến 
Tạm lập danh giả dối 
Không phải nghĩa chơn thiệt 
Chỉ có bậc siêu việt 
Thông suốt không thủ xã 
Vì biết pháp ngũ uẩn 
Cùng cái Ta ở trong 
Ngoài bày các sắc tướng 
Tất cả tướng âm thanh 
Bình đẳng như mộng huyễn 
Không còn thấy Thánh Phàm 
Chẳng nghĩ cảnh Niết Bàn 
Hai việc, ba thời dứt 
Hằng ứng dụng các căn 
Vẫn không tưởng là dụng 
Phân biệt tất cả pháp 
Vẫn không tưởng phân biệt 
Kiếp lửa, thiêu đáy biển 
Gió thổi, núi chạm nhau 
Chơn thường, tịch diệt vui 
Cảnh Niết Bàn như vậy 
Ta nay gượng nói ra 
Khiến ông bỏ tà kiến 
Ông chớ giải theo lời 
Cho ông biết phần ít. 
 

Chí Đạo nghe kệ rồi, tâm tánh rất tỏ sáng, không xiết vui mừng, bèn làm lễ lui ra. 

Hạnh Tư Thiền

Hạnh Tư Thiền Sư, con nhà họ Lưu, sanh trưởng tại huyện An Thành, phủ Kiết Châu, nghe đạo pháp của Tào Khê khai hóa thạnh hành, bèn đến làm lễ Đại Sư mà hỏi rằng: " Tu hành phải làm theo pháp nào, mới khỏi lạc vào giai cấp?" 

 Sư nói: "Ông từng làm theo pháp nào ?"

Tăng bạch: "Pháp Thánh Đế (Bốn Diệu Đế), tôi cũng chẳng làm theo đó." 

 Sư nói: "Lạc vào giai cấp nào?" 

 Tăng bạch: "Pháp Thánh Đế còn chẳng làm theo, thì đâu có giai cấp !" 

 Đại Sư rất trọng người lợi căn, bảo Hạnh Tư làm đầu đại chúng. Một ngày kia, Sư kêu Hạnh Tư mà dạy rằng: "Ông phải tách ra, đi hóa độ một phương, đừng để mối Đạo đoạn tuyệt." 
 

Hạnh Tư đã đắc pháp, bèn trở về núi Thanh Nguyên, phủ Kiết Châu, mà hoằng hóa độ sanh. Sau khi tịch, người được tặng là Hoằng Tế Thiền Sư 

Hoài Nhượng Thiền Sư

Hoài Nhượng Thiền Sư, con nhà họ Đỗ, ở huyện Kim Châu, ban sơ đến viếng An Quốc-Sư ở núi Tung Sơn. An Quốc Sư gởi Thiền Sư qua Tào Khê viếng Huệ Năng Lục Tổ. Hoài Nhượng đến làm lễ. 

Sư hỏi rằng: " Ở xứ nào đến đây?" 
Tăng bạch : " Núi Tung Sơn." 
Sư hỏi rằng: " Có việc gì? Đến đây làm chi?" 
Tăng bạch: "Nói dường có một việc thì không trúng." 
Sư nói: "Còn tu chứng, phải chăng ?" 
Tăng bạch: "Tu chứng thì chẳng phải là không có, còn nói nhiễm trược thì không đặng." 

Sư nói: "Chỉ có sự chẳng nhiễm trược ấy là chỗ hộ niệm của Chư Phật vậy. Ông đã như thế, ta cũng như thế. Đức Bác Nhã Đa La (Tỗ thứ 27) bên Tây-Thiên-Trước có lời sấm rằng: "Dưới chân ông sẽ sanh ra một con ngựa tơ mạnh mẽ, đạp giết người trong thiên hạ. Đó là điểm ứng tại tâm ông, chẳng cầu vội nói." 

Hoài Nhượng Thiền Sư liền suốt thông, hiểu rõ điều ấy, mới theo hầu hạ Đại Sư trên mười lăm năm. Một ngày kia, đạt được chỗ huyền ảo. Sau Thiền Sư qua núi Nam Nhạc, mở rộng cửa Thiền Tông. Sau khi viên tịch rồi, người được sắc phong là Đại Huệ Thiền Sư

Vĩnh Gia Huyền Giác Thiền Sư

Vĩnh Gia Huyền Giác Thiền Sư, con nhà họ Đái, ở huyện Vĩnh Gia, phủ Ôn Châu. Lúc còn trẻ, học tập kinh luật, chuyên về pháp môn Thiên Thai Chỉ Quán. Nhơn xem kinh Duy Ma mà đặng tỏ sáng tâm tánh. Tình cờ gặp đệ tử của Đại SưHuyền Sách. Huyền Giác phỏng vấnluận đàm kịch liệt, mỗi lời nói ra đều ám hiệp với tông chỉ của các vị Tổ Sư

Huyền Sách hỏi: "Nhơn giả đắc Pháp với nhà sư nào?" 

Huyền Giác đáp: "Tôi nghe kinh luận của môn Phương Đẳng, mỗi chỗ đều có thầy chỉ dạy. Sau nhờ xem kinh Duy Mahiểu rõ được tông Phật Tông, nhưng chưa có người chứng minh." 

Huyền Sách nói: "Từ đời Phật Oai Âm Vương sắp về trước, tự mình tỏ sáng thì được, còn từ đời Phật Oai Âm Vương sắp về sau, không có thầy truyền, mà tự mình tỏ sáng, ấy tự nhiênngoại đạo." 

Đáp: "Xin nhơn giả trưng bằng cớ cho tôi biết." 

Huyền Sách nói: "Chỗ tôi nói e còn sơ thất. Ở Tào KhêLục Tổ Đại Sư, bốn phương đều quy tụ nơi đó mà thọ pháp với Ngài. Nếu nhơn giả muốn đến đó, thì tôi cũng đi với."

Cả hai đồng đến viếng Tổ SưHuyền Giác đi xung quanh Tổ Sư ba vòng, rồi chống tích trượng mà đứng. 

Đại Sư nói: "Phàm làm thầy Sa môn thì phải giữ đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnhĐại Đức ở phương nào đến đây mà sanh lòng ngã mạn lớn vậy?" 

Huyền Giác bạch: "Sanh tử là việc lớn, sự vô thường là mau chóng." 

Sư nói: "Sao chẳng thể theo tánh không sanh của mình và tỏ ráo tánh không mau chóng của mình ?" 

Huyền Giác bạch: "Thể theo tánh mình tức là không sanh, tỏ ráo tánh mình vốn không mau chóng." 

Sư nói: "Phải vậy ! Phải vậy !" 

Huyền Giác mới dùng đủ oai nghilễ bái, kế một lát xin cáo từ

Sư nói: " Sao trở về rất chóng vậy?" 

Huyền Giác bạch: "Cái tánh Bổn lai tự nó chẳng phải động, há có chỗ chóng sao?" 

Sư nói: " Ai biết nó chẳng phải động?" 

Huyền Giác bạch: "Nhơn giả tự sanh lòng phân biệt." 

Sư nói: "Ông rất đặng cái ý vô sanh." 

Huyền Giác bạch: " Vô sanh há có ý sao?" 

Sư nói: "Không có ý thì lấy chi mà phân biệt ?" 

Huyền Giác bạch: "Phân biệt cũng chẳng phải là ý." 

Sư nói: "Hay thay ! Hãy ở lại đây nữa ít nhất là một đêm." 

Lúc bấy giờ, gọi là một đêm Giác. Sau Vĩnh Gia Thiền Sư có làm bài ca chứng đạo, truyền báthế gian rất thạnh hành. Sau khi tịch, người đặng sắc tặng là Vô Tướng Đại Sư. Lúc bấy giờ, người ta xưng là Chơn Giác Thiền Sư

Trí Hoàng Thiền Sư

Thiền giả tên Trí Hoàng, ban sơ đến viếng Ngũ Tổ, tự gọi mình đã được chánh thọ. Người ngồi trường trong am trọn hai mươi năm. 

Đệ tử của Đại SưHuyền Sách đi du phương đến Hà Sóc, nghe danh Trí Hoàng cất am, bèn tìm tới mà hỏi rằng: "Thầy làm gì ở đây?" 

Trí Hoàng đáp: "Nhập Định." 

Huyền Sách nói: "Thầy nói nhập định, nhưng hữu tâm mà nhập hay là vô tâm mà nhập. Nếu vô tâm mà nhập, thì cả thảy các loài vô tình như cây cỏ ngói gạch cũng định được. Còn nếu hữu tâm mà nhập, thì các loài hữu tình hàm thức cũng định được." 

Trí Hoàng nói: "Chánh lúc tôi nhập định, không thấy cái tâm hữu vô." 

Huyền Sách nói: "Không thấy cái tâm hữu vô tức là Thường Định, nào có xuất nhập! Nếu có xuất nhập tức chẳng phải là Đại Định." 

Trí Hoàng không trả lời. Một hồi lâu hỏi rằng: "Thầy của nhơn giả là ai?" 

Huyền Sách nói: "Thầy của tôi là Lục TổTào Khê." 

Trí Hoàng hỏi: "Lục Tổ lấy pháp gì làm Thiền Định?" 

Huyền Sách nói: "Cứ theo chỗ thầy tôi nói: "Thiền Định là tánh rất trong sạch, hoàn toàn vắng lặng, thể dụng như như, năm uẩn vốn không, sáu trần chẳng có, không xuất không nhập, không định không loạn. Tánh Thiền không trụ, lìa cái niệm tưởng về chỗ trụ thiền. Tánh Thiền không sanh, lìa cái niệm tưởng về chỗ sanh thiền. Lòng như trống không, cũng không nghĩ đến chỗ trống không. 

Trí Hoàng nghe nói vậy, bèn đi ngay đến viếng Tổ Sư

Sư hỏi rằng: "Nhơn giả ở đâu lại?" 

Trí Hoàng thuật đủ nhơn duyên do đã kể trước. 

Sư nói: "Quả thật như chỗ nói ấy. Nếu ông giữ cái tâm trống không chẳng dính níu chỗ thấy không, ứng dụng thông suốt, không trở ngại, động tịnh đều vô tâm, phàm thánh đều quên dứt, tâm năng tâm sở đều diệt trừ, tánh tướng tự nhiên không động, thì không có lúc nào là chẳng định." 

Trí Hoàng nghe rồi, lòng rất tỏ sáng, xem lại chỗ sở đắc của mình trong hai mươi năm đều không có ảnh hưởng chi cả. Đêm ấy, tại Hà Bắc, các quan dân nghe trên không trung có tiếng rằng: Trí Hoàng Thiền Sư ngày nay đắc đạo

Sau Trí Hoàng làm lễ từ giã Đại Sư, lại trở về Hà Bắc mà khai hóa tứ chúng

Hiểu Phật Pháp

Có một thầy tăng hỏi Đại Sư rằng: "Người nào đặng cái ý chỉ của Đức Huỳnh Mai?" 

Sư rằng: "Người hiểu Phật Pháp đặng." 
Bạch: "Phải Hòa Thượng đặng chăng?" 
Sư nói: "Ta không hiểu Phật Pháp." 

 
Phương Biện

Một ngày kia, Sư muốn giặt cái Pháp Y của Ngài đã được truyền thọ, mà không tìm được cái suối trong. Nhơn đi đến sau chùa ước năm dặm, thấy núi rừng rậm rạp, thoại khí bao giăng, Sư xóc cây tích trượng xuống đất, mạch suối liền ứng theo tay mà chảy ra, chứa đầy thành ao. Sư quỳ gối trên tảng đá mà giặt áo. Bỗng đâu có một thầy tăng đến làm lễ và nói rằng: Tôi là Phương Biện, người ở Tây Thục, ngày hôm qua thấy Đức Đạt Ma Đại SưNam Thiên Trước dặn Phương Biện này mau qua Đường Độ, Ngài nói: "Cái Chánh Pháp Nhãn Tàng của Tổ Đại Ca Diếp mà ta đã truyền, và cái Pháp y, ta đã truyền xuống tới đời Tổ Thứ Sáu, tại Tào Khê, tỉnh Thiều Châu. Ông hãy đến đó mà chiêm lễ." Phương Biện này ở phương xa đến, xin xem y bát của thầy tôi đã truyền. 

Sư lấy y bát ra chỉ, rồi hỏi rằng: "Thượng nhơn hay giỏi về nghề gì?" 

Bạch: "Hay về nghề nắn hình." 

Sư tỏ vẻ nghiêm nghị, nói rằng: "Ông hãy nắn thử coi." 

Phương Biện bối rối, không biết nắn cách thế nào. Trải qua mấy ngày mới nắn xong chơn tướng, bề cao bảy tấc, khúc nào cũng thật khéo. 

Sư cười mà nói rằng: "Ông chỉ hiểu cái tánh nắn hình, mà chẳng hiểu cái tánh Phật." 

thung dung lấy tay chà nơi đĩnh đầu Phương Biện mà nói rằng: "Hãy làm việc phước điền nơi cõi ngườicõi trời cho lâu dài." 

Rồi Sư lại lấy một cái áo mà đền ơn cho Phương Biện. 

Phương Biện lấy áo xé làm ba đoạn, một đoạn choàng vào hình nắn, một đoạn để lại cho mình, một đoạn đựng vào hộp cây Tông (loại cây Kè-nd) mà chôn xuống đất, và thề rằng: "Sau tìm được mảnh áo này, tức là ta ra đời mà trụ trì nơi đây, và sửa lại ngôi chùa vậy." 

(Phần bổ túc từ kinh dịch của HT TQ) 

Đến đời Tống, niên hiệu Gia-Hựu, năm thứ tám, có một vị tăng tên Duy Tiên, đào đất để sửa chùa, gặp được y hãy còn như mới. 

Riêng chơn tượng của Đức Lục Tổ về sau thờ tại chùa Cao Tuyền, linh thiêng vô lượng, những người chánh tâm cầu khẩn, đều được toại nguyện

Ngọa Luân Thiền Sư

Có một thầy tăng cất tiếng đọc bài kệ khen Ngọa Luân Thiền Sư rằng: 

Ngọa Luân tài rất hay 
Dứt được cả tư tưởng 
Đối cảnh lòng không động 
Bồ Đề ngày vượng lớn 

Sư nghe kệ, nói rằng: "Bài kệ ấy chưa tỏ sáng Bổn Tâm. Nếu y theo đó mà tu hành, thì thêm sự ràng buộc." 

Nhơn đó, sư nói kệ rằng: 

Huệ Năng tài chẳng hay 
Không dứt cả tư tưởng 
Đối cảnh, động lòng hoài 
Bồ Đề đâu vượng lớn?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32565)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12029)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12154)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12568)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34440)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10381)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12971)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21641)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9516)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10295)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12518)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12647)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16111)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16403)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11185)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16102)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12611)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11934)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11401)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12510)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14381)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13099)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10852)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20149)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13849)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11905)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant