Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Phẩm Phú Chúc

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12877)
10. Phẩm Phú Chúc

PHÁP BẢO ĐÀN KINH
Minh Trực Thiền Sư Việt dịch

10. Phẩm Phú Chúc 
(Lời dặn về Trao Pháp và cách truyền bá, duy trì Phật Đạo

Một ngày kia, Đại Sư gọi các môn nhơn: Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như mà nói rằng: "Các ông chẳng phải giống như các người khác. Sau khi ta diệt độ rồi, các ông mỗi người sẽ ra làm thầy một phương. Nay ta dạy các ông khi ra thuyết pháp, chẳng nên làm sai lạc bổn tông. Trước hết phải cử ra ba khoa Pháp môn và ba mươi sáu pháp đối về sự động dụng. Khi ra, lúc ẩn, phải lìa cả đôi bên, nói cả thảy các pháp mà chớ lìa Bổn tánh của mình. 

Thoạt có người hỏi các ông về Phật Pháp, thì các lời nói ra phải đi cặp nhau, đều phải dùng pháp đối, qua lại đối nhau, rốt cùng cả hai pháp đều bỏ hết, lại cũng không chấp chỗ bỏ ấy nữa. 

Ba khoa pháp môn ấy là: Ấm, Giới, Nhập. 

Ấm là năm Ấm (vật che lấp bổn tánh-nd): Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. 

Giới là mười tám giới hạn: 

Sáu trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) 

Sáu căn (Mắt, Tai, Mủi, Lưởi, Thân, Ý). 

Sáu thức (Sự biết của Mắt, sự biết của Tai, sự biết của Mủi, sự biết của Lưởi, sự biết của Thân, sự biết của Ý). 

Nhập là mười hai chỗ ra vào: Ngoài có sáu trần, trong có sáu cửa. 

Cái Tánh của mình có thể bao gồm muôn pháp, nên gọi là Hàm Tàng Thức. Nếu tánh khởi lo nghĩ, tức là tánh chuyển ra thức. Thức này lại sanh ra sáu Thức, sáu Thức chun ra Sáu Cửa, rồi thấy Sáu Trần. Thế thì, mười tám giới đều do tánh mình khởi dụng. Nếu tánh mình tà, thì khởi ra mười tám điều tà. Còn nếu tánh mình chánh, thì khởi ra mười tám điều chánh. Tánh mình ứng dụng theo điều dữ, tức là chỗ ứng dụng của chúng sanh. Còn tánh mình ứng dụng theo điều lành, tức là chỗ ứng dụng của Phật. Vậy chỗ khởi dụng do đâu mà có? Do nơi tánh mình vậy. 

Những pháp đối là: 

Năm pháp đối của loài vô tình ở cảnh ngoài: 

1. Trời đối với Đất 

2. Mặt Trời đối với Mặt Trăng 

3. Sáng đối với Tối 

4. Âm đối với Dương 

5. Nước đối với Lửa. 

Ấy là năm pháp đối. 

 

Mười hai pháp đối của lời nói thuộc về pháp tướng

1. Tiếng Nói đối với Pháp. 

2. Có đối với Không. 

3. Sắc Chất đối với Không Sắc Chất. 

4. Tướng đối với Không Tướng

5. Hữu Lậu đối với Vô Lậu

6. Sắc đối với Không. 

7. Động đối với Tịnh. 

8. Trong đối với Đục. 

9. Phàm đối với Thánh. 

10. Tăng đối với Tục. 

11. Già đối với Trẻ 

12. Lớn đối với Nhỏ 

Ấy là mười hai pháp đối. 

 

Mười chín pháp đối của tánh mình trong chỗ khởi dụng: 

1. Hay đối với Dở 

2. Tà đối với Chánh 

3. Si đối với Huệ 

4. Ngu đối với Trí 

5. Loạn đối với Định 

6. Từ(lành) đối với Độc(dữ) 

7. Giới(răn) đối với Phi(lỗi) 

8. Ngay đối với Vạy 

9. Thật đối với Dối 

10. Hiễm(ác) đối với Bình(đẳng

11. Phiền não đối với Bồ Đề 

12. Thường đối với Không Thường 

13. Thương đối với Hại 

14. Mừng đối với Giận 

15. Bố Thí đối với Bỏn Sẽn 

16. Tới đối với Lui 

17. Sanh đối với Diệt 

18. Pháp Thân đối với Sắc Thân 

19. Hóa Thân đối với Báo Thân 

Ấy là mười chín pháp đối. 

 

Sư lại nói rằng: "Ba mươi sáu pháp đối ấy, nếu hiểu mà dùng cho đứng đắn, thì nói cả thảy kinh pháp ra vào đều lìa cả hai bên. 

Khi các tánh mình động dụng, nói chuyện với người, thì ngoài đối với tướng mà phải lìa tướng, trong đối với không mà phảI lìa không. Nếu tánh mình toàn trước tướng tức là làm lớn thêm cái tà kiến. Bằng tánh mình toàn chấp không, tức là làm lớn thêm sự vô minh. Người chấp "không" thường có ý chê kinh, nói rằng chẳng dùng văn tự. Đã rằng chẳng dùng văn tự, lẽ thì họ chẳng nói ra lời mới phải, vì lời nói ra tức là cái tướng của văn tự. Lại nói Chánh Đạo chẳng lập văn tự, mà hai chữ "chẳng lập" đó cũng là văn tự! Hễ thấy người ta nói thì chê lời nói của người là chấp truớc văn tự

Các vị phải biết: Tự mình mê còn dung được, sao dám chê bai kinh Phật? Chẳng nên chê kinh mà phải bị tội chướng vô cùng

Trước tướng bên ngoài mà lập ra phép tắc để cầu chơn đạo, hoặc mở rộng Đạo tràng, hoặc nói ra những điều lầm lỗi về chỗ "có" chỗ "không", người như thế ấy, dầu tu mấy muôn kiếp, cũng không thể thấy tánh được. Phải nghe và y theo chánh pháptu hành, lại cũng chẳng nên chẳng nghĩ đến mọi việc, mà làm cho bít ngăn cái đạo tánh. Nếu nghe pháp mà chẳng tu, ắt khiến người trở lại sanh tà niệm. Phải y theo pháp mà tu hành. Còn thí pháp thì đừng trụ vào tướng. Nếu các ông đều rõ, thì y theo đây mà ứng dụng, y theo đây mà hành động, y theo đây mà làm các việc, thì chẳng lạc bổn tông. 

Nếu có người hỏi các ông về đạo nghĩa: Hỏi có thì đối không, hỏi không thì đối có, hỏi phàm thì đối thánh, hỏi thánh thì đối phàm, hai đường đối nhau thì sanh ra nghĩa trung đạo. Một câu hỏi, một câu đáp. Giai dư câu hỏi khác, cứ y theo đây mà thi hành, thì chẳng sai lý vậy. Giả như có người hỏi sao gọi là tối? Đáp: Sáng là cái nhơn, tối là cái duyên, sáng dứt thì tối. Lấy cái sáng mà chỉ rõ cái tối; Lấy cái tối mà chỉ rõ cái sáng, qua lại đối nhau thì thành cái nghĩa trung đạo. Mấy điều hỏi khác, tất cả đều y theo cách chỉ đó mà trả lời. Ngày sau các ông có di truyền pháp, cứ y theo pháp ấy mà truyền dạy nhau, chớ làm sai tông chỉ." 

-------------------- 

Thái Cực ngươn niên (Niên hiệu vua Đường Duệ Tông) cãi lại là Diên Hòa, nhằm năm Nhâm Tý, tháng bảy, Đại Sư sai kẻ môn nhân qua Tân Châu, nơi chùa Quốc Ân Tự, mà xây một cái tháp và bảo thúc các người làm công phải xây cho rồi sớm. Cuối mùa hạ năm kế, làm lễ lạc thành

Ngày mồng một tháng bảy, Sư nhóm các đồ chúng mà nói rằng: "Đến tháng tám, ta muốn lìa bỏ thế gian; Các ông có điều nào nghi, phải hiệp nhau hỏi cho sớm, ta sẽ phá nghi cho các ông hết mê muội. Sau ta tịch rồi, không có người chỉ dạy các ông." 

Các môn đệ như ngài Pháp Hải nghe rồi, cả thảy đều khóc mùi. Duy có Thần Hội, thần tình tự nhiên lại cũng không khóc. 

Sư rằng: "Thần Hội Tiểu Sư đã chứng được bậc Thiện và chẳng Thiện đồng như nhau, chê khen không động, buồn vui chẳng sanh, còn giai dư các đồ đệ khác không đặng như vậy. 

Ở trong núi mấy năm, các ông hành đạo gì? Nay các ông buồn khóc là vì lo cho ai? Nếu là lo cho ta không biết chỗ đi, thì ta đã tự biết chỗ đi. Nếu ta không biết chỗ đi, thì ta chẳng báo tin cho các ông hay trước. Các ông buồn khóc là vì chẳng biết chỗ ta đi. Nếu biết chỗ ta đi, thì chẳng nên buồn khóc. Cái Pháp Tánh vốn không sanh diệt, đi lại. Các ông hết thảy ngồi xuống, ta nói cho các ông một bài kệ gọi là Chơn Giả Động Tịnh Kệ. Các ông hãy tụng bài kệ này, thì được đồng một tâm ý với ta. Y theo bài kệ ấy mà tu hành thì chẳng sai tông chỉ

Chúng tăng làm lễ, xin Sư làm kệ: 

Chơn Giả Động Tịnh Kệ (bài dịch của HT Từ Quang

 

Tất cả không có chơn 

Đừng nghĩ thấy cái chơn 

Nếu thấy có cái chơn 

Cái "thấy" ấy không phải chơn 

Nếu tự mình có chơn 

Lìa giả là tâm chơn 

Tâm mình chẳng lìa giả 

Không chơn, chỗ nào chơn 

Hữu tình tức biết động 

Vô tình tức chẳng động 

Nếu tu hạnh chẳng động 

Đồng với vô tình chẳng động 

Nếu tìm chơn chẳng động 

Trong động, có "chẳng động" 

Chẳng động là "chẳng động" 

Không tình, không "Phật chủng" 

Nhận-định tướng phân biệt 

Nghĩa thứ nhất chẳng động 

Dùng chánh kiến như vậy 

Tức là Chơn Như Dụng 

Tỏ cùng người học đạo 

Gắng công và dụng ý 

Đừng ở của Đại Thừa 

Lại chấp trí sanh tử 

Nếu lời nói tương ứng 

Thì nghĩa Phật chung bàn 

Nếu thiệt chẳng tương ứng 

Chấp tay, khiến vui mừng 

Tông chỉ, gốc không tranh 

Tranh làm mất Đạo ý 

Cố tranh-chấp lý Đạo 

Tự tánh vào sanh tử 

 

Khi nghe kệ rồi, các đồ chúng đều làm lễ. Cả thảy đều thể theo bổn ý của Đại Sư, mỗi người kềm tâm, y pháp tu hành, lại chẳng dám tranh luận nữa. 

Biết rằng Đại Sư chẳng còn ở lâu tại thế, thầy Thượng Tọa Pháp Hải lại làm lễ mà hỏi rằng: "Sau khi Hòa Thượng nhập diệt rồi, y pháp phải truyền cho ai?" 

Sư nói: "Các lời ta thuyết pháp từ lúc ở chùa Đại Phạm đến ngày nay đều phải biên chép lại mà lưu hành, và phải nhãn đề là Pháp Bửu Đàn Kinh. Các ông hãy giữ gìn, thay thế nhau mà truyền thọ để độ chúng sanh. Hãy y theo lời kinh này mà nói, ấy gọi là Chánh Pháp

Nay ta nói pháp cho các ông mà chẳng giao cái áo Cà-sa là bởi cái tín căn của các ông đã thuần thục, chắc chắn không nghi, có thể nhậm kham việc lớn. Lại cứ như ý bài kệ của tiên Tổ Đạt Ma Đại Sư để lại, thì cái áo cà-sa chẳng nên truyền. 

Kệ rằng: (Đạt Mạ Tổ Sư Kệ) 

Vốn Ta đến cõi này 

Truyền pháp cứu mê tình 

Một bông, nở năm cánh 

Kết trái được sum-sê 

---------------------------- 

Sư lại nói rằng: "Chư Thiện Tri Thức, các ông mỗi người phải tịnh tâm mà nghe ta nói pháp. 

Muốn thành tựu cả thảy giống trí Phật, thì phải đạt đến cảnh: Một Tướng Chánh Định, Một Hạnh Chánh Định

Đối với cả thảy các nơi mà tâm chẳng trụ vào các tướng. Trong các tướng ấy chẳng sanh lòng ghét yêu, cũng không chấp bỏ, chẳng tưởng đến việc lợi hại nên hư, một mực an nhàn điềm tịnh, hư dung đạm bạc, ấy là pháp Một Tướng Chánh Định

Đối với cả thảy các nơi, đi đứng ngồi nằm, phải ròng giữ một lòng ngay thật, chẳng động đạo tràng, phải thiệt lòng tịnh độ. Ấy gọi là pháp Một Hạnh Chánh Định

Nếu người nào có đủ hai pháp Chánh Định ấy, thì cũng như đất có hột giống, ngậm chứa châm nuôi cho hột giống ấy lớn lơn tới kỳ trái chín. Một Tướng Chánh Định, Một Hạnh Chánh Định cũng giống như thế. 

Nay ta nói pháp cũng như trời mưa thấm ướt khắp cả mặt đất. Phật tánh của các ông tỉ như các hột giống gặp đám mưa pháp này, thì cả thảy đều thấm ướt và phát sanh. Người nào vâng theo tông chỉ của ta, chắc đặng đạo Bồ Đề; Y theo chỗ làm của ta, ắt chứng diệu quả. Hãy nghe ta kệ: 

Tâm Địa gồm bao các giống lành 

Mưa chan khắp thấm mộng đều sanh. 

Hoa tình Bổn Tánh mình liền hiểu 

Trái quý Bồ Đề tự kết thành. 

Sư nói kệ rồi tiếp rằng: "Pháp vốn không hai, tâm mình cũng vậy. Đạo là trong lặng, không có các tướng. Các ông hãy cẩn thận, chớ đắm vào cảnh không và xem cảnh tịnh. Tâm vốn trong sạch, chẳng có gì mà chấp hay bỏ được. Mỗi người tự gắng sứctùy duyên mà ứng động. Thôi hãy lui ra. 

Khi ấy đồ chúng làm lễ mà lui ra 

-------------------------------- 

Ngày mồng tám, tháng bảy, thình lình Đại Sư gọi các môn nhơn mà dạy rằng: "Ta muốn về Tân Châu, các ông mau sửa soạn chiếc ghe." 

Đại chúng buồn thảm và gắng sức cầm ngài ở lại. 

Sư nói: "Chư Phật ra đời, rồi cũng vào Niết Bàn. Có lại ắt có đi, lẽ ấy cũng là thường vậy. Cái hình hài của ta đây đi về chỗ đã định." 

Chúng nhơn bạch rằng: "Từ đây Sư đi, sớm muộn xin Sư cũng trở về." 

Sư nói: "Lá rụng thì về cội. Trở về thì không ngày." 

Chúng nhơn lại hỏi: "Cái Chánh Pháp Nhãn Tàng sẽ truyền trao lại cho người nào?" 

Sư nói: "Hữu Đạo thì đặng, Vô Tâm thì không." 

Chúng lại hỏi: "Ngày sau có tai có nạn chi chăng?" 

Sư nói: "Sau khi ta tịch diệt, năm sáu năm, sẽ có một người đến lấy đầu ta. Hãy nghe lời ta thọ ký

Trên đầu dưỡng thân 

Trong miệng cần ăn 

Gặp nạn tên Mãn 

Dương Liễu làm quan." 

 

Sư lại nói: "Ta tịch rồi, bảy mươi năm, sẽ có hai vị Bồ Tát từ Đông Phương đến, một vị xuất gia, một vị tại gia, đồng thời hưng hóa, kiến lập tông phái của ta và tạo tu Phật tự. Chính là hai vị Pháp Tự xương minh chánh giáo vậy." 

Chúng nhơn lại hỏi rằng: "Chẳng biết từ trên Phật Tổ ứng hiện tới nay, đã truyền thọ được mấy đời? Xin Tổ Sư chỉ dạy." 

Sư nói: "Cổ Phật đã ra đời được vô số, không thể kể hết được. Nay kể bảy vị Phật làm đầu mà thôi. 

Đời quá khứ Trang Nghiêm Kiếp có: 

1. Tì Bà Thi Phật 

2. Thi Khí Phật 

3. Tì Xá Phù Phật 

 

Đời Kim Hiền Kiếp có: 

1. Câu Lưu Tôn Phật 

2. Câu Na Hàm Mâu Ni Phật 

3. Ca Diếp Phật 

4. Thích Ca Mâu Ni Phật 

Ấy là bảy vị Phật

 

Trước hết, Thích Ca Mâu Ni Phật truyền cho Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả, Tổ thứ nhất: 

1. Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả 

2. A-Nan-Đà Tôn Giả 

3. Thương Na Hòa Tu Tôn Giả 

4. Ưu-Bà-Cúc-Đa Tôn Giả 

5. Đề Đa Ca Tôn Giả 

6. Di Già Ca Tôn Giả 

7. Bà Tu Mật Đa Tôn Giả 

8. Phật Đà Nan Đề Tôn Giả 

9. Phục Đà Mật Đa Tôn Giả 

10. Hiếp Tôn Giả 

11. Phú Na Dạ Xa Tôn Giả 

12. Mã Minh Đại Sĩ 

13. Ca Tì Ma La Tôn Giả 

14. Long Thọ Đại SĨ 

15. Ca Na Đề Bà Tôn Giả 

16. La Hầu La Đa Tôn Giả 

17. Tăng Già Nan Đề Tôn Giả 

18. Già Da Xá Đa Tôn Giả 

19. Cưu Ma La Đa Tôn Giả 

20. Đồ Dạ Đa Tôn Giả 

21. Bà Tu Bán Đầu Tôn Giả 

22. Ma Nã La Tôn Giả 

23. Hạt Lặc Na Tôn Giả 

24. Sư Tử Tôn Giả 

25. Bà Xá Tư Đa Tôn Giả 

26. Bất Như Mật Đa Tôn Giả 

27. Bát Nhã Đa La Tôn Giả 

28. Bồ Đề Đạt Ma Tôn Giả 

29. Huệ Khả Đại Sư 

30. Tăng Xán Đại Sư 

31. Đạo Tín Đại Sư 

32. Hoằng Nhẫn Đại Sư 

33. Huệ Năng Đại Sư 

 

Huệ Năng này là Tổ thứ 33. Từ trên, các vị Tổ mỗi vị đều có vâng mạng truyền kế nhau. Ngày sau, các ông phải thay thế nhau mà lưu truyền, đừng làm trái nghịch và sai lầm

Niên Hiệu Tiên Thiên (Vua Đường Huyền Tông) thứ hai, nhằm năm Quý Sửu, tháng tám, ngày mồng ba, tại chùa Quốc Ân, sau khi thọ trai rồi, Đại Sư bèn kêu đồ chúng mà bảo rằng: "Các vị hãy theo ngôi thứ mà ngồi, ta sắp từ biệt các vị." 

Pháp Hải bạch rằng: "Hòa Thượng để lại giáo pháp gì, khiến cho những người mê muội đời sau đặng thấy Phật tánh?" 

Sư nói: "Các ông hãy chú tâm nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau nếu biết cái tâm chúng sanh, tức là biết Phật tánh. Bằng chẳng biết cái tâm chúng sanh, thì muôn kiếp tìm Phật ắt khó gặp. Nay ta dạy các ông phải biết chúng sanh ở tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì phải biết cái tâm chúng sanh. Chỉ vì cái tâm chúng sanh làm mê muội tánh Phật, chớ chẳng phải tánh Phật làm mê muội tâm chúng sanh. Nếu mình giác ngộ, thì chúng sanh tức là Phật. Bằng tánh mình mê muội, thì Phật là chúng sanh. Tánh mình bình đẳng thì chúng sanh tức là Phật. Tánh mình tà hiểm, thì Phật là chúng sanh. Nếu tâm của các ông hiểm khúc, thì tức là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm bình đẳng, ngay thật, tức là chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở tâm mình, mới thiệt là chơn Phật. Nếu mình không có tâm Phật, thì tìm chơn Phật ở nơi nào? Cái tự tâm của các ông là Phật, chớ khá hồ nghi

Thiệt sự thì ngoài cái tâm, không có một vật gì tạo ra được, vậy mà chính cái Bổn tâm sanh ra muôn giống pháp vậy. Cho nên Kinh nói: "Tâm sanh thì muôn giống pháp đều sanh. Tâm diệt thì muôn giống pháp đều diệt. 

Nay ta để lại một bài kệ đặng từ biệt các ông. Bài kệ này gọi là: Tự Tánh Chơn Phật Kệ. Bài kệ nói về chơn Phật ở nơi tánh mình. Người đời sau biết được cái ý chỉ của bài kệ này, thì tự mình thấy Bổn Tâm, tự mình thành Phật đạo. 

Tự Tánh Chơn Phật Kệ (Bản dịch của HT Từ Quang

Tự Tánh Chơn NhưChơn Phật 

Tà Kiến Tam ĐộcMa Vương 

Lúc tà mê thì ma choán chỗ 

Khi chánh kiến thì Phật tại tâm 

Trong tánh thấy tà, ba độc sanh 

Tức là ma vương đến trụ xá 

Chánh kiến trừ tuyệt ba lòng độc 

Ma chuyển làm Phật, thiệt không giả 

Pháp thân, Báo Thân, với Hóa Thân 

Tuy ba thân vớn thiệt một thân 

Nếu tự tánh mình năng tự thấy 

Tức là thành Phật Bồ Đề nhân 

Bởi có Hóa Thân nương tánh tịnh 

Tánh tịnh hằng ở trong Hóa Thân 

Tánh khiến Hóa Thân hành đạo chánh 

Về sau viên mãn chân vô tận 

Tánh dâm vốn là nhân tánh tịnh 

Đoạn dâm thì thành Tịnh-Tánh Thân 

Trong tánh ly khai cả năm dục 

Giây phút thấy tánh tức là chơn 

Đời nay ngộ được môn Đốn Giáo 

Tỏ ngay tự tánh, thấy Thế Tôn 

Nếu muốn tu hành cầu làm Phật 

Biết đâu là chỗ để tầm chơn 

Như trong tâm tự thấy chơn được 

Chơn ấy tức là nhân thành Phật 

Không thấy tự tánh, cầu Phật khác 

Khởi lòng như vậy, là người mê lớn 

Pháp môn Đốn Giáo nay truyền lại 

Cứu độ người thế, phải tự tu 

Khuyên người học đạohậu thế 

Không theo chánh kiến, luống bơi vơi. 

Đại Sư nói kệ rồi, bảo rằng: "Các ông hãy ở lại, sau khi ta diệt độ, chẳng nên theo thế tình mà buồn khóc ủ ê, hoặc thọ sự điếu vấn của người, hoặc mình mặc hiếu phục. Nếu trái lời ta mà làm như thế, thì các ông chẳng phải là đệ tử của ta, vì đó chẳng phải là chánh pháp. Người biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh mình thì tánh không động không tịnh, không sanh không diệt, không đi không lại, không phải không quấy, không ở chỗ nào, cũng không dời đổi. Ta sợ e các ông còn mê muội, không hiểu ý ta, nên nay ta dặn lại các ông, đặng cho các ông thấy tánh. Sau khi ta diệt độ, phải y theo pháp ấy mà tu hành, như lúc ta còn ở tại thế. Nếu làm trái lời ta dạy, dầu ta ở tại thế cũng không ích gì." 

Sư lại nói kệ rằng: 

Thản nhiên, chẳng gây lành 

Dũng mãnh, chẳng tạo dữ 

Vắng lặng, dứt thấy nghe 

Bao la, lòng vô trụ 

Tổ thuyết xong, ngồi kiết già đến canh ba, thoạt nhiên bảo môn nhơn: "Ta đi." Nói rồi, ngồi im lặng tịch diệt. Khi ấy, mùi thơm lạ bay phưởng phất khắp chùa, móng bạc chiếu đất, rừng cây biến màu trắng, cầm thú kêu giọng bi ai. 

Qua tháng mười một năm ấy, các quan liêu ở trong ba quận Quảng Châu, Thiều Châu, Tân Châu, cùng các môn nhơn, chư Tăng, và cư sĩ, giành nhau rước chơn thân của Tổ. 

Trong lúc phân vân, chưa quyết định đưa linh cửu về đâu, đại chúng đồng ý niệm hương khấn vái: "Hễ khói nhang bay về xứ nào, thì sư sẽ về xứ ấy." Lúc ấy, khói nhang bay thẳng về Tào Khê

Ngày mười ba, tháng mười một, trong năm ấy, dời Thần Khám (Cái tháp bằng cây để ngồi thiền định-nd) của Đại Sư và đồ y bát của Tổ về xứ Tào Khê

Qua năm kế, ngày hai mươi lăm, tháng bảy, mở Thần Khám ra, Phương Biện dâng cúng keo thơm, các môn nhơn vì lời sấm "Thủ thủ", lấy một miếng thiếc bao vải dầu quấn vào cổ hầu tránh nạn trộm thủ cấp, rồi đưa chơn thân vào tháp, bổng nhiên thấy trong tháp có một lằn hào quang trắng xuất hiện, chiếu thẳng lên trời, trọn ba ngày mới tan. 

Quan Thứ Sử Thiều Châu làm biểu tâu vua và khi được sắc lệnh của vua, vâng làm một tấm bia ghi đạo hạnh của Tổ như vầy: "Tổ Sư niên kỷ bảy mươi sáu tuổi, hồi hai mươi bốn tuổi được truyền y, ba mươi chín tuổi xuống tóc, thuyết pháp độ sanh ba mươi bảy năm, các vị đặng tông chỉ, vâng thọ giáo pháp, tiếp tục lưu truyền, được bốn mươi ba người, còn những người tỏ chánh đạo, thoát tục siêu phàm, không biết bao nhiêu mà kê khai." 

Tín y của Sơ Tổ Đạt Ma truyền lại làm bằng bố Khuất Uyến ở xứ Tây Thiên, y Ma-nạp và bửu bát của vua Trung Tôn ân tứ, chơn tượng của Tổ do Phương Biện đắp, với những đạo khí đều giao cho người chủ trì bửu tháp gìn giữ, để an trấn vĩnh viễn tại đạo tràng Bữu Lâm. Quyển Pháp Bảo Đàn Kinh được lưu truyền phổ biến để làm sáng tỏ Tông chỉ của Tổ, giúp ngôi Tam Bảo được thịnh vượng và tất cả chúng sanh đồng lợi lạc

Sau khi chơn thân của Tổ an vị tại Bửu Tháp, vào niên hiệu Khai Nguyên thứ mười, năm Nhâm Tuất, ngày mùng ba tháng tám, giữa đêm, bổng nhiên nghe trong tháp có tiếng kéo dây sắt. Chư Tăng hoảng hốt thức dậy, thì thấy có một người mặc áo tang bịt khăn chế từ trong chạy ra. Chư Tăng xem xét lại thì thấy có dấu cắt ở cổ của Tổ, mới biết người mặc tang phục vừa chạy thoátkẻ trộm. Chư Tăng làm điệp thuật rõ tự sự trình Huyện và Châu. 

Quan Huyện Linh là Dương Khảng và Quan Thứ Sử Thiều Châu là Liễu Vô Thiểm tiếp nhận điệp của chư Tăng, tức tốc đến Bửu Tháp điều tra và tập nã thủ phạm. Qua ngày mùng năm, quan Huyện bắt được kẻ trộm ở làng Thạch Giác, dẫn về Thiều Châu. Kẻ trộm khai rằng: "Nguyên tánh danh là Trương Tịnh Mãn, ở Lương Huyện, Nhữ Châu, thọ lãnh một số tiền mướn hai mươi ngàn quan của Tăng nhân Kim Đại Bi, quê quán ở Tân La, trụ trì chùa Khai Nguyên, Hồng Châu, bảo lén lấy đầu của Đức Lục Tổ đem về Hải Đông để cúng dường." 

Liễu Thái Thú nghe qua mấy lời cung trạng như vậy, chưa vội định tội, bèn đến Tào Khê, hỏi vị Thượng túc, đệ tử của Tổ là Linh Thao Đại Sư: "Bạch Thầy, Thầy muốn buộc tội cách nào?" 

Đại Sư Linh Thao đáp: "Nếu lấy phép nước mà xử, thì tội tên Mãn đáng tru di. Tuy nhiên, lấy lượng Đại Từ Đại Bi của Đạo Phật thì kẻ thù người thân vốn bình đẳng, vả chăng, việc trộm thủ cấp này nhằm mục đích cúng dàng cầu phước; Âu cũng là việc lầm lạc đáng tha thứ." 

Liễu Thái Thú nghe qua lời nói khoan dung nhân hậu của Đại Sư Linh Thao, khen ngợi: "Thế mới biết cửa Phật từ bi rộng lớn bao la vô tận!" Vì vậy, Liễu Thái Thú tha bổng tên Mãn. 

Niên hiệu Thượng Nguyên thứ nhất, vua Túc Tông sai sứ quân đến Bổn tự, xin thỉnh y bát của Tổ đem vào hoàng cung để cúng dường trong một thời gian

Đến niên hiệu Vĩnh Thái thứ nhất, ngày mùng năm tháng năm, vua Đại Tông chiêm bao thấy Đức Lục Tổ đến đòi y bát. Ngày mùng bảy, vua ban sắc lịnh cho quan Thứ Sử là Dương Giám rằng: "Trẫm chiêm bao thấy Đức Huệ Năng Thiền Sư bảo đem y bát của Tổ trở về Tào Khê, nay Trẫm đề cử quan Trấn Quốc Đại Tướng Quân là Lưu Sùng Cảnh cung kính đưa y bát về. Trẫm tôn trọng quốc bảo. Vậy khanh hãy đến Bổn tự đúng theo phép tắc mà an vị, rồi yêu cầu chư tăng nào vâng thọ tông chỉ của Tổ, phải cẩn thận gìn giữ, chớ để lạc mất." 

Về sau, y-bát của Tổ thường bị trộm đem đi xa, nhưng tầm lại được, đã bốn lần như thế. 

Hoàng Đế Hiến Tông kính tặng Tổ đức hiệu: "Đại Giám Thiền Sư" và Bửu tháp hiệu: "Nguyên Hòa Linh Chiếu." 

Ngoài sự tích kể trên, còn có nhiều sự tích khác của Đức Lục Tổ Huệ Năng được khắc vào các tấm bia của Thượng Thơ Vương Duy, Thứ Sử Liễu Tông Nguyên và Thứ Sữ Lưu Võ Tích ở đời Đường. Sa Môn Linh Thao, lãnh sứ mạng thủ hộ Bửu tháp của Tổ, có công chép lại các sự tích

Đến thời Mao Trạch Đông, thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa (1966 – 1976), nhục thân của Đức Lục Tổ gặp nạn. Hồng Vệ Binh lên chùa, dùng báng súng đập nát chơn thân Ngài. Sau khi bọn chúng rút đi, các Tăng thâu thập lại xương cốt và những phần da còn lại của ngài, chắp nối, (nhất là phần đầu) rồi sơn phết lại. (Cư sĩ Thiện Quang phụ chú – Tháng 12 ngày 18 năm 2002 tây lịch) 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13971)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10740)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10405)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11869)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13526)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33513)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11251)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11525)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17771)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11320)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11746)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11404)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12461)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11215)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13060)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15624)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11610)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12631)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13862)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12833)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13200)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12652)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12608)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11653)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12231)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12253)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19688)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11877)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11905)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16730)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12573)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15979)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12762)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12134)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11801)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13141)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12389)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11732)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19736)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11070)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11172)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11014)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9951)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11656)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant