Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

6. Phẩm thứ sáu: Sám hối

11 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12603)
6. Phẩm thứ sáu: Sám hối

KINH PHÁP BẢO ĐÀN
HUỆ NĂNG LỤC TỔ

Soạn thuật: Pháp Hải - Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải

PHẨM THỨ SÁU
SÁM HỐI

Bấy giờ, Đại sư thấy bốn phương trí thứcthường dân ở Quảng-Thiều đều đến núi nghe pháp, bèn thăng tòa bảo chúng:

 - Lại đây, Thiện tri thức! Việc này nên từ tự tánh khởi, trong tất cả thời, thường tự tịnh tâm mình, tự tu hạnh mình, thấy Pháp thân của mình, tự thấy Phật trong tâm mình. Tự độ tự thành mới được, không cần đến đây. Các ngài đã từ xa xôi đến tập hội, đều có duyên với nhau, vậy hãy đồng quỳ xuống, trước tiên tôi sẽ truyền cho năm phần hương của tự tánh Pháp thân, rồi trao pháp sám hối Vô tướng.

Chúng đều quỳ, Sư dạy:

- Thứ nhất, giới hương, là tự tâm không quấy, không ác, không ganh ghét, không tham sân, không cướp hại, gọi là giới hương.

Hai định hương, là thấy cảnh tướng thiện ác tự tâm không loạn.

Ba là tuệ hương, là tự tâm không ngại, thường đem trí tuệ quán chiếu tự tánh, không tạo các ác. Tuy tu các điều lành mà tâm không vướng mắc, kính trên thương dưới, xót thương kẻ cô độc nghèo cùng, gọi là tuệ hương.

Bốn giải thoát hương, là tự tâm không vin theo duyên, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tự tại vô ngại, gọi là giải thoát hương.

Năm giải thoát tri kiến hương, là tự tâm không chạy theo thiện ác, không chìm nơi không, kẹt nơi tịch, mà cần học rộng nghe nhiều, biết tự bản tâm thông đạt lý của chư Phật, hòa ánh sáng tiếp độ mọi người, tâm không nhân ngã thẳng đến Bồ đề, chơn tánh không dời đổi. Ấy là giải thoát tri kiến hương. Thiện tri thức! Hương này mỗi người tự xông bên trong, chớ tìm ở ngoài.

Nay tôi lại vì các người mà trao pháp sám hối Vô tướng, diệt tội ba đời, khiến được ba nghiệp thanh tịnh. Thiện tri thức, hãy nói theo lời tôi:

- “Đệ tử chúng con, từ niệm trước, niệm này và niệm sau, mỗi niệm đều không bị u mê ô nhiễm, từ trước có bao nhiêu tội ác nghiệp u mê, đều xin sám hối, nguyện một lần tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại.

Đệ tử chúng con, từ niệm trước, niệm này đến niệm sau, mỗi niệm không bị kiêu căng dối trá làm ô nhiễm, từ trước có bao nhiêu ác nghiệp kiêu căng dối trá nay đều sám hối, nguyện một lần tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại.

Đệ tử chúng con, từ niệm trước, niệm này tới niệm sau, mỗi niệm không bị ganh ghét làm ô nhiễm, từ trước có bao nhiêu ác nghiệp ganh ghét đều xin sám hối, nguyện một lần tiêu diệt, vĩnh viễn không khởi lại”.

Thiện tri thức! Trên đây là pháp sám hối Vô tướng. Sao gọi là sám? Sao là hối? Sám là sám tội trước, từ trước có bao nhiêu ác nghiệp, các tội u mê kiêu mạn dối trá ganh ghét v.v … đều sám hối cả, vĩnh viễn không tái phạm, ấy gọi là sám. Hối là hối lỗi về sau, từ nay trở đi, bao nhiêu ác nghiệp u mê kiêu mạn v.v … nay đã giác ngộ, đều xin vĩnh viễn dứt trừ, không tái phạm, ấy gọi là hối. Do đó gọi là sám hối. Kẻ phàm phu ngu muội chỉ biết sám lỗi trước mà không biết hối lỗi sau, vì không hối nên tội trước không diệt, lỗi sau lại sanh. Tội trước không diệt, tội sau sanh lại, thì sao gọi là sám hối được.

Thiện tri thức! Đã sám hối rồi, nay lại phải phát bổn nguyện lớn. Hãy chú tâm nghe kỹ.

Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn.
Tự tánh pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Tự tánh Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.

Thiện tri thức! Quý vị vừa nói: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Vì sao nói vậy, ấy có nghĩa không phải Huệ Năng này độ. Chúng sanh trong tâm chính là cái tâm tà mê, tâm dối trá, tâm bất thiện, tâm ganh ghét, tâm ác độc, những tâm như vậy đều gọi là tâm chúng sanh, mỗi người phải dùng tự tánh tự độ, ấy mới là chơn thật độ. Sao gọi là tự tánh tự độ? Nghãi là trong tâm có những chúng sanh như tà kiến, phiền não, ngu si, thì phải đem chánh kiến mà độ chúng. Đã có chánh kiến thì phải dùng trí Bát nhã đánh đổ ngu si mê vọng, mỗi mỗi chúng sanh phải tự độ lấy. Tà đến thì lấy chánh để độ, mê đến thì lấy ngộ độ, ngu đến lấy trí độ, ác đến lấy thiện độ, độ như thế gọi là chơn chánh độ.

 Lại “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” là đem trí Bát nhã của tự tánh mà trừ bỏ tâm tưởng hư vọng.

“Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là cốt tự thấy tánh, thường thực hành Chánh pháp, ấy mới là chơn chánh học tập.

“Phật đạo Vô thượng thệ nguyện thành” là thường sanh tâm khiêm hạ, thực hành Chánh đạo lìa mê lìa giác, thường sanh Bát nhã, trừ chơn trừ vọng, liền thấy Phật tánh, thì nói ra bèn thành Phật đạo. Thường nhớ nghĩ việc tu hành, ấy là năng lực của thệ nguyện.

Thiện tri thức! Đã phát bốn hoằng thệ nguyện xong, nay tôi lại truyền giới ba Quy y Vô tướng cho quý vị:

Thiện tri thức! Quy y giác, lưỡng túc tôn. Quy y chánh, ly dục tôn. Quy y tịnh, chúng trung tôn. Từ nay trở đi, xưng Giác làm Phật, không trở lại quy y tà ma ngoại đạo. Vì Tam Bảo nơi tự tánh thường tự chứng minh, nên tôi khuyên Thiện tri thức hãy quy y tự tánh Tam Bảo: Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh.

Tự tâm Quy y Giác, thì tà mê không sanh, ít muốn biết đủ, lìa được tài sắc gọi là Lưỡng Túc Tôn.

Tự tâm Quy y Chánh, trong mỗi mỗi niệm đều không tà kiến, do không tà kiến nên không có tâm nhân ngã cống cao tham ái chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn.

Tự tâm Quy y Tịnh, đối với hết thảy cảnh trần lao ái dục tự tánh tuyệt đối không ô nhiễm mắc vướng, gọi là Chúng Trung Tôn. Tu hạnh ấy gọi là Tự quy y. Kẻ phàm phu không hiểu, ngày đêm cứ thọ giới tam quy, nhưng nói Quy y Phật, thì Phật ở chỗ nào? Nếu không thấy Phật thì dựa vào đâu mà quay về? Thành ra nói sai vậy.

Thiện tri thức! Hãy tự quán sát, chớ dụng tâm sai. Kinh nói rõ Tự quy y Phật là nương Phật nơi mình, không nói quy y Phật khác, Phật nơi mình không nương thì không có chỗ nào nương. Nay đã tự ngộ, quý vị hãy quy y Tam Bảo của tự tâm. Trong điều phục tâm tánh, ngoài kính trọng mọi người, gọi là Tự quy y vậy. Thiện tri thức! Đã quy y Tam Bảo của tự tâm xong, hãy chí thành nghe ba thân của Tự tánh Phật. Tất cả hãy nói theo tôi.

Nơi sắc thân này, quy y Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.
Nơi sắc thân này, quy y ngàn trăm ức Hóa Thân Phật.
Nơi sắc thân này, quy y Viên Mãn Báo Thân Phật.

Thiện tri thức! Sắc thân là nhà không thể nói nương về.

Thiện tri thức! Ba thân Phật ở ngay trong tự tánh, người đời đều có, chỉ vì tự tâm mê, không thấy tánh nên đi tìm ba thân Phật ở ngoài, không thấy trong tự thân có ba thân Phật. Hãy nghe đây, tôi sẽ chỉ cho quý vị thấy ba thân Phật trong tự tánh. Ba thân Phật từ tự tánh sanh, không do ngoài mà có.

Sao gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân? Người đời tánh vốn thanh tịnh, vạn pháp từ tự tánh sanh, suy nghĩ mọi việc ác thì sanh khởi mọi hành động ác, suy nghĩ mọi việc lành thì sanh hành động thiện. Như vậy, các pháp đều do nơi tự tánh, như trời thường trong, mặt trăng mặt trời thường sáng, chỉ vì mây che mà trời đất mù mịt hôn ám. Nếu gặp gió thổi mây tan, thì trời đất đều quang minh, mọi vật hiện rõ. Người đời tánh thường trôi nổi như đám mây kia. Thiện tri thức! Trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ thường sáng. Ngoài vướng cảnh thì tự tánh tuệ thường sáng. Ngoài vướng cảnh thì tự tánh bị đám mây vọng niệm ngăn che không được quang đãng. Nếu gặp thiện tri thức, nghe chánh pháp tự trừ mê vọng, trong ngoài sáng suốt, thì nơi tự tánh vạn pháp hiện rõ. Người kiến tánh cũng vậy. Thế gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.

Thiện tri thức! Tự tâm quy y tự tánh đó là quy y Phật thật. Tự quy y có nghĩa là trừ khử nơi tự tánh những tâm bất thiện, tâm ganh ghét, tâm dua nịnh quanh co, tâm dối trá, tâm khinh người, tâm kiêu ngạo tà kiến, cùng mọi hành vi bất thiện trong mọi lúc. Thường tự thấy lỗi mình, không nói điều tốt xấu của người khác ấy là Tự quy y. Thường phải có tâm khiêm hạ, kính trọng mọi người, ấy là kiến tánh thông đạt, không còn trở ngại, ấy là Tự quy y.

Sao gọi là Thiên Bách Ức Hóa Thân? Khi vạn pháp không nghĩ, thì tánh vốn hư không, khi khởi một niệm suy lường, thì gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác hóa ra địa ngục, suy nghĩ việc lành hóa ra thiên đường, độc hại hóa ra rồng rắn, từ bi hóa ra Bồ tát, trí tuệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa thành phương dưới. Tự tánh biến hóa rất nhiều, người mê không thể tỉnh giác, niệm niệm thường khởi ác, thường đi đường ác, nếu quay về một niệm lành, liền phát sanh trí tuệ. Đấy gọi là tự tánh Hóa Thân Phật.

Sao gọi là Viên Mãn Báo Thân? Ví như một ngọn đèn có thể trừ bóng tối ngàn năm, một trí tuệthể diệt cái ngu vạn năm. Đường nghĩ chuyện về trước, vì đã qua không trở lại. Thường nghĩ về sau, niệm niệm viên minh, tự thấy bản tánh, thiện ác tuy khác mà bản tánh không hai, tánh không hai ấy là thật tánh. Trong thật tánh không nhiễm thiện ác, đấy là Viên Mãn Báo Thân Phật. Tự tánh khởi một niệm ác, thì tiêu diệt nhân lành vạn kiếp. Tự tánh khởi một niệm lành, thì dứt được hằng hà sa ác, thẳng đến Vô thượng Bồ đề. Trong từng mỗi niệm tự thấy tánh, gọi là Báo Thân.

Thiện tri thức! Từ Pháp Thân mà tư lượng tức là Hóa Thân Phật, trong từng mỗi niệm tự thấy bản tánh gọi là Báo Thân Phật. Tự ngộ, tự tu, tự tánh công đức, ấy là Quy y chơn thật. Sắc thân bằng da thịt này chỉ như một cái nhà (sẽ hư hoại) không thể nương được. Cho nên phải ngộ ba thân của tự tánh, mới được biết Đức Phật của tự tâm. Tôi có một bài tụng Vô tướng, nếu tụng và hành trì, thì tội lỗi mê lầm tích chứa nhiều kiếp liền tiêu. Tụng rằng:

Người mê tu phước không tu đạo
Cho rằng tu phước ấy là đạo
Bố thí cúng dường phước vô biên
Ba độc trong tâm xưa nay tạo
Toan đem tu phước mong diệt tội
Đời sau được phước, tội còn nguyên
Chỉ ngay trong tâm trừ mầm tội
Ngay nơi tự tánh chơn sám hối
Được ngộ chơn sám hối Đại thừa
Trừ tà làm chánh liền không tội
Học đạo thường quán nơi tự tánh
Thì liền đồng bậc với chư Phật
Tổ ta chỉ truyền Đốn pháp này
Nguyện cho tất cả đồng thấy tánh
Nếu tương lai muốn tìm Pháp thân
Lìa hết pháp tướng tẩy sạch tâm
Nỗ lực kiến tánh chớ biếng trễ
Niệm xong chợt dứt là xong đời
Nếu ngộ pháp Đại thừa kiến tánh
Chắp tay thành khẩn chí tâm cầu.

Thiện tri thức! Tất cả hãy tụng thuộc, theo đó mà tu, thấy được tánh, thì tuy xa tôi ngàn dặm vẫn như ở gần bên. Nếu không nghe lời này, thì dù có đối diện cũng cách xa thiên lý. Chúc đi bình an!

Chúng nghe pháp không ai là chẳng khai ngộ, hoan hỷ phụng hành.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14728)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11799)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10315)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12039)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15258)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11050)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10490)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12441)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16407)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14278)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11748)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16794)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11550)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12711)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11322)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12033)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52057)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15444)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13949)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11415)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13143)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12757)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13194)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17880)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12426)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12632)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54177)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14408)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9908)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13806)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14471)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20105)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15376)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17475)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13297)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11902)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13469)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14638)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12460)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12140)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12048)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12517)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13651)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25543)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14518)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11827)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42039)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28287)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38761)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14705)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12681)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16230)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant