Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Phẩm thứ mười: Dặn dò

11 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12700)
10. Phẩm thứ mười: Dặn dò

KINH PHÁP BẢO ĐÀN
HUỆ NĂNG LỤC TỔ

Soạn thuật: Pháp Hải - Dịch giả: Thích Nữ Trí Hải

PHẨM THỨ MƯỜI
DẶN DÒ

Một hôm, Sư gọi môn nhân gồm có Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như v.v… mà dạy rằng:

- Các ông không như người khác, sau khi tôi diệt độ, mỗi người sẽ làm thầy một phương, nay tôi dạy cho các ông thuyết pháp không để mất tông chỉ. Trước phải đưa ra pháp môn ba khoa, sử dụng 36 đôi, ra vào đều lìa cả hai bên. Khi nói tất cả các pháp chớ rời tự tánh.

Ba khoa là ấm, giới, nhập. Ấm là năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhập là mười hai nhập, tức sáu trần ở ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) và sáu căn ở trong (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý). Giới là 18 giới: sáu trần, sáu căn và sáu thức. Tự tánhcông năng hàm chứa vạn pháp, gọi là hàm tàng thức. Nếu khởi tư lượng thì chuyển thành thức, phát sanh ra sáu thức đi ra sáu cửa mà thấy sáu trần, như vậy 18 giới đều từ tự tánh mà khởi ra ứng dụng. Tự tánh mà tà mê thì khởi 18 tà, tự tánh chánh thì khởi 18 chánh. Ứng dụng ác thì gọi là chúng sanh dụng. Ứng dụng thiện thì gọi là Phật dụng.

Dụng do đâu mà có? Do tự tánhđối pháp: ngoại cảnh vô tình có 5 đối: trời đối với đất, mặt trời đối với mặt trăng, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: lời đối với pháp, có đối với không, hữu sắc đối với vô sắc, hữu tướng đối với vô tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tịnh, trong đối với đục, phàm đối với Thánh, Tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Đó là 12 đối.

Tự tánh khởi dụng có 19 đối: dài – ngắn, tà – chánh, si – tuệ, ngu – trí, loạn – định, hiền – dữ, giới – quấy, thẳng – cong, thật – hư, hiểm – bình, phiền nãoBồ đề, thường – vô thường, bi – hại, hỷ - sân, xả - xan, tới – lui, sanh – diệt, Pháp thânsắc thân, Hóa thânBáo thân. Ấy là 19 đối. 36 đối pháp này nếu biết rõ ứng dụng thì bao quát hết thảy binh pháp, ra vào đều lìa hai bên, tự tánh động dụng, khi cùng người đối đáp. Ngoài thì ngay tướng mà lìa tướng, trong thì ngay nơi không mà lìa không. Nếu toàn chấp tướng ấy là tăng trưởng tà kiến, toàn chấp khôngtăng trưởng vô minh. Ngoài chấp không thường bài bác Kinh, nói rằng không dùng văn tự. Nhưng đã nói không dùng văn tự, thì đáng lẽ cũng không được nói phô. Nội một lời ấy đã là cái tướng văn tự rồi. Lại nói “Đạo thẳng thì không cần lập văn tự”, nhưng hai tiếng “bất lập” cũng là văn tự. Hạng người ấy thấy người khác nói ra điều gì liền bác, cho là chấp văn tự. Các ông nên biết mình mê còn khả thứ, đằng này còn chê bai Kinh Phật thì tội chướng vô số. Nếu chấp tướng bên ngoài làm các sự việc tìm chân lý như thiết lập đạo tràng để bàn luận về không về hữu, những người như vậy mãn kiếp không thể thấy tánh được.

Các ông chỉ có việc hãy như pháptu hành. Lại cũng chớ nên trăm việc không nghĩ tới, khiến cho cái tánh (lưu thông) của đạo bị chướng ngại. Nếu chỉ nghe và giảng nói mà không tu, thì sẽ làm cho người phát sanh tà niệm. Chỉ cần y pháptu hành, ấy là bố thí Phật pháp một cách vô tướng. Nếu các ông đã ngộ, theo đấy mà giảng nói, theo đấy mà ứng dụng, theo đấy mà hành trì, theo đấy mà làm tức không mất tông chỉ. Khi cùng người đối đáp nghĩa lý, hỏi về hữu thì đối bằng vô, hỏi về vô thì đối bằng hữu, hỏi về phàm thì đối bằng Thánh, hỏi về Thánh thì đối bằng phàm. Hai đường làm nhân cho nhau phát sanh cái nghĩa Trung đạo. Các câu hỏi khác cứ y theo đấy mà làm thì khỏi mất chánh lý. Ví dụ, có người hỏi các ông “tối” là gì? Hãy đáp “sáng là nhân, tối là dyên, sáng hết thì tối, dùng sáng mà tỏ rõ cái tối; lấy tối mà làm tỏ cái sáng”. Đến đi làm nhân cho nhau, thành cái nghĩa lý Trung đạo. Các câu hỏi khác cũng vậy. Các ông về sau truyền pháp, cứ theo đấy mà truyền dạy nhau, chớ để mất tông chỉ.

Năm Nhâm Tý vào thời đại Thái cực nguyên niên tháng bảy, Sư dạy môn nhân tới chùa Quốc Ân ở Tân Châu xây tháp, lại bảo làm gấp rút. Năm sau cuối mùa hạ công tác hoàn tất. Vào ngày mồng một tháng bảy, Sư tập hợp đồ chúng dạy:

- Đến tháng tám này tôi sẽ từ biệt thế gian. Các ông còn điều nghi nào nên hỏi cho sớm, tôi sẽ phá nghi cho, khiến các ông hết mê lầm. Sau khi tôi đi rồi thì không còn ai dạy các ông.

Pháp Hảiđồ chúng nghe xong đều khóc rơi lụy, chỉ có Thần Hộibất động, Sư dạy:

- Ra chỉ có Thần Hội là có tâm bình đẳng, khen chê bất động, buồn vui không sanh, còn bao nhiêu đều chưa được. Vậy chớ các ông ở trong núi bao nhiêu năm, tu cái đạo gì? Nay các ông sầu khổ rơi lụy là khóc cho ai? Nếu khóc cho tôi, ấy là không biết chỗ tôi đi, nếu không tôi đã không báo trước cho các ông. Nếu các ông biết chỗ tôi đi, thì thật không đáng khóc lóc gì cả. Pháp tánh vốn không sanh diệt đến đi. Thôi, hãy ngồi xuống, tôi sẽ nói cho các ông một bài kệ mệnh danh là “Chơn giả động tịnh”. Các ông hãy học thuộc bài kệ này, đồng ý với tôi, theo đấy tu hành thì không mất tông chỉ.

Đại chúng đảnh lễ mà nghe Sư đọc:

Hết thảy đều không thật
Không do thấy mà thật
Nếu giả cho là thật
Cái thấy đó không chơn.

Nếu tự tánh có chơn
Lìa giả là tâm chơn
Tự tâm không lìa giả
Không chỗ nào có chơn.

Loài hữu tình thì động
Vô tình thì bất động
Nếu tu hạnh bất động
Là hóa như vô tình.

Tìm bất đông chơn thật
Là ngay nơi cái động
Còn như loài bất động
Vô tình, không Phật chủng

Khéo phân biệt pháp tướng
bất động đệ nhất
Chỉ cần thấy như vậy
Ấy là dụng chơn như.

Hỡi các người học đạo
Hãy nổ lực để ý
Chớ ở cửa Đại thừa
Lại chấp sanh tử trí.

Nếu lời nói hợp nhau
Thì cùng bàn ý nghĩa
Nếu thật không hợp nhau
Cùng chấp tay vui hòa.

Tông này không tranh cãi
Tranh cãi mất ý đạo
Giữ cái thói đấu tranh
đi vào sanh tử.

Đồ chúng nghe kệ xong đều đảnh lễ nguyện vâng Thánh ý, nhiếp tâm theo đó tu hành, không dám tranh luận. Thượng tọa Pháp Hải biết Sư không còn trú lâu ở đời nên đảnh lễ mà hỏi:

- Bạch, sau khi Hòa thượng nhập diệt, y pháp sẽ truyền cho ai?

Sư dạy:

- Từ ngày ở chùa Đại Phạm đến nay những pháp tôi nói ra hãy sao lục mà lưu hành, đặt tên là PHÁP BẢO ĐÀN KINH. Các ông hãy giữ gìn để trao truyền cho nhau mà hóa độ quần chúng. Chỉ nương theo đó mà nói pháp thì đấy là Chánh pháp. Nay tôi chỉ nói pháp cho các ông mà không trao y, bởi vì tín căn các ông đã thuần thục, quyết định không còn nghi hoặc, có thể đảm trách việc lớn. Lại theo Thánh ý trong bài kệ của Đạt Ma Sư Tổ thì không nên truyền y nữa, kệ ấy như vầy:

Ta vốn đến đất này
Để truyền pháp cứu mê
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.

Sư lại dạy:

- Các ông muốn thành tựu trí Phật thì phải đạt “Nhất tướng Tam muội” và “Nhất hạnh Tam muội”. Trong tất cả chỗ mà không chấp tướng, đối với mọi sự không sanh tâm yêu ghét lấy bỏ, không nghĩ đến chuyện lợi ích thành hoại, luôn giữ thái độ an nhàn điềm tịnh Như thái đạm bạc, ấy là Nhất tướng Tam muội. Ở tất cả các chỗ, lúc đi đứng ngồi nằm, đều giữ một tâm ngay thẳng, đó là bất động đạo tràng, đó là Tịnh độ chân thật, ấy gọi là Nhất hạnh Tam muội. Đủ hai thứ Tam muội ấy, thì như đất có tàng ẩn hạt giống, dần dần lớn lên thành cây trái. Nhất tướng nhất hạnh cũng vậy. Tôi nói pháp như mưa đúng thời thấm vào đất, Phật tánh các ông như những hạt giống gặp sự thấm nhuần ấy đều được nảy nở. Theo tông chỉ của tôi thì chắc chắn được trí Bồ đề, theo hạnh của tôi thì quyết sẽ chứng diệu quả. Hãy nghe kệ này:

Đất tâm đủ các giống
Gặp mưa đều nảy mầm
Hoa “đốn ngộ” đã nở
Trái “Bồ đề” tự thành.

Đọc bài kệ xong, Sư lại dạy:

- Pháp vốn không hai, tâm cũng vậy. Đạo vốn thanh tịnh không có các tướng. Các ông hãy cẩn thận , chớ quán tịnh và làm trống rỗng cái tâm. Tâm vôn thanh tịnh, không có một vật gì có thể lấy hay bỏ. Các ông hãy nổ lực.

 Đồ chúng đảnh lễ mà lui.
Ngày mồng tám tháng bảy, Sư gọi môn nhân bảo:

- Tôi muốn về Tân Châu, các ông hãy mau sửa soạn thuyền chèo.

Đại chúng tha thiết xin Ngài lưu lại, nhưng Sư bảo:

- Chư Phật ra đời còn thị hiện nhập Niết bàn. Có đến phải có đi, lẽ thường là vậy. Hình hài này của tôi đi về đã có chỗ.

Chúng bạch hỏi:

- Hòa thượng đi rồi, xin sớm trở lại.

Sư dạy:

- Lá rụng về cội, trở lại không có ngày.

Chúng lại hỏi:

- Chánh pháp nhãn tạng nay truyền cho ai?

trả lời bằng hai câu kệ:

 Hữu đạo giả đắc
Vô tâm giả thông.

 Người có đạo thì được
Người vô tâm thì thông.

- Bạch, từ khi Phật Tổ ứng hiện đến nay, truyền pháp đã được mấy đời? Xin Hòa thượng từ bi giải nói.
-
Chư Phật xưa xuất hiện ra đời thì số lượng không thể đếm xiết. Nay chỉ kể bảy vị Phật làm nguyên thủy vào kiếp trung Nguyên, thì quá khứ có:

 Phật Tỳ bà Thi.
Phật Thi Khí.
Phật Tỳ Xá Phù.
Hiền kiếp hiện tại có:
Phật Câu Lưu Tôn.
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni.
Phật Ca Diếp.
Thích Ca văn Phật.

Ấy là bảy vị Phật. Từ đức Thích Ca Mâu Ni truyền xuống có:

1. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp.
2. Tôn giả A Nan.
3. Tôn giả Thương Na Hòa Tu.
4. Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa.
5. Tôn giả Đề Đa ca.
6. Tôn giả Di Giá Ca.
7. Tôn giả Bà Tu Mật Đa.
8. Tôn giả Phật Đà Nan Đề.
9. Tôn giả Phục Đà Mật Đa.
10. Hiếp Tôn giả 
11. Tôn giả Phú Na Dạ Xà.
12. Mã Minh Đại Sĩ.
13. Tôn giả Ca Tỳ Ma La.
14. Long Thụ Đại Sĩ.
15. Tôn giả Ca na Đề bà.
16. Tôn giả La hầu La Đa.
17. Tôn giả Tăng Già Nan Đề.
18. Tôn giả Già Da Xá Đa.
19. Tôn giả Cưu Ma La Đa.
20. Tôn giả Xà Da Đa.
21. Tôn giả Bà Tu Bàn Đầu.
22. Tôn giả Ma Noa La.
23. Tôn giả Cưu Lặc Na.
24. Tôn giả Sư Tử.
25. Tôn giả Bà Xá Tư Đa.
26. Tôn giả Bất Như Mật Đa.
27. Tôn giả Bát Nhã Đa La.
28. Tôn giả Bồ Đề Đạt ma.
Còn đất này thì có:
29. Đại Sư Huệ Khả.
30. Đại Sư Tăng Xán.
31. Đại Sư Đạo Tín.
32. Đại Sư Hoằng Nhẫn.
Huệ Năng là Tổ thứ 33.

Từ các đời chư Tổ về trước, mỗi vị đều có hệ thống truyền thừa, các ông về sau hãy thay nhau lưu truyền Chánh Pháp, chớ để sai lạc.

Chúng hỏi:

- Về sau có nạn gì nữa không?

Sư đáp:

- Sau khi tôi mất sáu năm, sẽ có kẻ muốn trộm cái đầu của tôi, hãy nghe tôi nói lời sấm này:

 Trên đầu nuôi người thân
Trong miệng cần đồ ăn
Khi gặp nạn Mãn này
Dương Liễu làm quan xử.

 (Đầu thượng dưỡng thân
Khẩu lý tu xan
Ngộ Mãn chi nạn
Dương Liễu vi quan).

Năm Quý Sửu (nhằm thời đại Tiên Thiên năm thứ hai) ngày mồng ba tháng tám, tại chùa Quốc Ân, sau khi thọ trai xong. Đại sư gọi đồ chúng bảo:

- Các ông hãy theo thứ bậc mà ngồi xuống, tôi sẽ từ biệt.

Pháp Hải bạch:

- Hòa thượng để lại giáo pháp gì cho người mê đời sau thấy được Phật tánh?

Sư dạy:

- Các ông hãy nghe kỹ. Người mê đời sau, nếu biết rõ chúng sanh, thì đấy là Phật tánh. Nếu không hiểu rõ chúng sanh, thì vạn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Tôi nay khuyên các ông hãy biết rõ chúng sanh của tự tâm thì thấy được Phật tánh của tự tâm. Muốn tìm thấy Phật, chỉ cần biết rõ chúng sanh. Chính vì chúng sanh mê không thấy Phật, chứ không phải Phật làm cho chúng sanh mê lầm. Nếu ngộ được tự tánh, thì chúng sanh là Phật. Nếu tự tánh mê, thì Phật trở thành chúng sanh. Tự tánhbình đẳng, thì chúng sanh là Phật, tự tánh mà hiểm hóc tà vạy, thì Phật làm chúng sanh. Nếu tâm các ông hiểm độc quanh co thì Phật bị ẩn khuất trong chúng sanh, mà một niệm ngay thẳng khởi lên, thì đó là chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Đức Phật của tự tâm mới là Phật thật. Nếu tự tâm không có Phật, thì biết tìm đâu cho ra một Đức Phật thật?

Tự tâm của các ông chính là Phật đó, đừng hồ nghi gì nữa. Ngoài tâm không một pháp nào có thể kiến lập, từ gốc tâm sanh ra vạn pháp, cho nên Kinh dạy: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt các pháp diệt”. Nay tôi để lại một bài kệ để từ biệt các ông, gọi là bài kệ về Đức Phật chơn thật của tự tánh. Người đời sau nếu biết được ý bài kệ này, thì sẽ tự thấy bản tâm, tự thành Phật đạo:

 Tự tánh chơn như là Phật thật
Tà kiến, ba độcma vương
Khi tà mê khởi; ma làm chủ
Khi chánh kiến sanh: Phật ngự tòa
Ba độc, tà kiến sanh nơi tánh
Ấy là ma vương lui tới nhà
Dùng chánh kiến trừ tâm ba độc
Thì ma hóa Phật thật không sai
Pháp thân, Báo thânhóa thân
Ba thân xưa nay chỉ là một
Nếu xoay vào tánh mà tự thấy
Ấy là nhân thành Phật Bồ đề
Vốn từ Hóa thân sanh tịnh tánh
Tánh thanh tịnh ở trong Hóa thân
Tánh ấy khiến thân làm đạo chánh
Tương lai viên mãn vô cùng chơn
Tánh tội lỗi vốn là nhân của tịnh
Vì bỏ tội lỗi thành thân thanh tịnh
Tự tánh xa lìa hết ngũ dục
Sát na thấy tánh, đó là chơn
Đời nay nếu được pháp Đốn giáo
Liền gặp tự tánh, thấy thế Tôn
Nếu muốn tu hành, muốn làm Phật
Biết chỗ nào khác để cầu chơn?
Nếu tự thấy chơn ở trong tâm
Có chơn thật là nhân thành Phật
Không thấy tự tánh, tìm Phật ngoài
Khởi tâm như vậy là đại ngu si
Nay tôi lưu lại pháp Đốn giáo
Cứu thế độ nhân, hãy tự tu
Hỡi những người học Phật tương lai
Không thấy vậy thì rất mờ mịt.

Sư nói kệ xong bảo đại chúng:

 - Các ông khéo ở lại. Sau khi tôi diệt độ, chớ nên làm như thế gian, khóc lóc nhận người phúng điếu chia buồn, vận tang phục, như thế không phải đệ tử tôi, cũng không phải Chánh pháp. Chỉ cốt phải biết tự tâm, thấy tự tánh, không động tịnh, không sanh không diệt, không đến không đi, không thị không phi, không ở không về. Sợ các ông tâm còn mê không hiểu ý tôi, nay tôi dặn dò các ông một lần nữa để các ông thấy được bản tánh. Sau khi tôi diệt độ hãy theo đấy tu hành thì cũng như tôi còn, nếu làm trái lời dạy của tôi, thì dù tôi có ở đời cũng không ích gì.

 Rồi Ngài dạy thêm bài kệ:

Ngột ngột bất tu thiện
Đằng đằng bất tạo ác 
Tịch tịch đoạn kiến văn
Đảng đảng tâm vô trước.

Trơ trơ không đắm thiện
Lăng xăng không tạo ác
Lặng lặng dứt thấy nghe
Tỏ tỏ tâm không vướng.

Dạy kệ xong, Ngài đoan tọa đến nửa đêm thì gọi đồ chúng mà từ biệt: “Tôi đi nhé” rồi an nhiên thị tịch. Bấy giờ một mùi hương lạ xông khắp, cầu vồng trắng tiếp giáp đến đất, cây rừng biến thành trắng xóa, cầm thú kêu tiếng bi ai.

Đến tháng 11 năm ấy, quan liêu ở ba quận Quảng Châu, Thiên Châu, Tân Châu cùng với đệ tử xuất gia, tại gia đều tranh nhau cung nghênh chơn thân của Ngài về đất của quận nhà, không thể quyết đoán sẽ thỉnh về đâu. Họ đốt hương khấn nguyện rằng, khói bay về đâu thì Đại sư sẽ về nơi ấy. Khi ấy khói hương bay thẳng đến Tào Khê. Ngày 13 tháng 11, nhục thân Ngài được cung nghênh về Tào Khê cùng với y bát.

Năm sau, vào ngày 25 tháng 7, quan tài được mở ra, đệ tử của Tổ là Phương Biện tô ngoài thi hài một lớp đất sét nhồi với bột trầm hương. Nhớ lời tiên đoán của Tổ về sự ăn cắp đầu, môn nhâm bèn lấy thiếc và vải sơn quấn vào cổ đề phòng bị trước khi nhập tháp. Bỗng nhiên một luồng ánh sáng trắng xuất hiện từ trong tháp vọt thẳng lên trời ba ngày sau mới tan. Quan sở tại Thiều Châu dâng sớ tâu lên vua, vua lập bia ghi lại đạo hạnh của Tổ.

Lục Tổ thọ 76 tuổi, năm 24 tuổi được truyền y bát, 39 thế phát, thuyết pháp độ sanh 37 năm. Đệ tử đắc pháp có 43 người, còn số người ngộ đạo thoát trần thì không kể xiết.

Cái y của Sư Tổ Đạt Ma truyền lại, y ma nạpbình bát quý do vua trung Tông tặng cùng với pho tượng của Sư do Phương Biện đắp và các pháp khí khác đều giao người coi tháp giữ gìn vĩnh viễn tại chùa Bảo Lâm. Đàn Kinh này được lưu truyền để hiển minh tông chỉ của thiền, làm cho Tam Bảo hưng thịnh, và đem lại lợi lạc cho quần sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14726)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11792)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12738)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10311)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12033)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15255)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11048)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10488)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12438)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16392)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14273)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11744)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14771)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12000)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16792)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11549)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12709)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11319)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12031)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52054)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15443)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13947)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11414)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13143)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12756)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13192)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17880)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12424)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12628)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54174)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14407)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9904)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13801)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57922)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14469)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20102)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13753)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15375)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17474)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13296)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11900)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13469)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14636)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12459)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12138)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12046)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12517)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13649)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13308)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25538)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12165)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14518)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11824)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42037)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28287)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38759)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14705)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12681)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16229)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant