Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

12 Tháng Tám 201100:00(Xem: 29303)
Luận về vấn đề hộ niệm lúc lâm chung theo kinh tạng Nikaya

LUẬN VỀ VẤN ĐỀ HỘ NIỆM LÚC LÂM CHUNG
THEO KINH TẠNG NIKAYA
Chúc Phú

Sinh mạng này ngắn thay,
Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già
(1)..

blankHy vọng được lợi dưỡnghy vọng được sống là hai hy vọng khó từ bỏ của con người, được Phật dạy trong kinh Tăng Chi(2). Càng về cuối của kiếp người, khi cuộc đua giữa thọ mạngthời gian đang đi vào hồi kết, thì dường như hy vọng lợi dưỡng đã và đang ngấp nghé rời sân để nhường chỗ cho hy vọng được sống, được tồn tại. Đôi khi, với một số chúng sanh nói riêng, các niềm hy vọng này thực sự là những quan ngại, vì chúng chợt bùng lên mạnh mẽ, chi phối và tạo nên một sự ảnh hưởng lớn đến việc thăng hoa hay đọa lạc của một con người.

Vào những thời khắc cuối cùng của kiếp sống, thân thể nằm trong sự khống chế của tật bệnh, của những khổ đau; đó cũng là lúc những bất thiện pháp tiềm ẩn lâu nay có khả năng trỗi lên trong dòng chảy tâm thức. Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo. Thậm chí ngay như một vị xuất gia, đôi khi phải miễn cưỡng chọn giải pháp kết liễu mạng sống vì không vượt qua được những nỗi đau tột cùng của thể xác(3). Thực tế đó đã cho thấy rằng, hơn bao giờ hết, việc hỗ trợ cho chúng sanh, nói rõ hơn là việc hộ niệm lúc lâm chung, không chỉ rất cần trong mọi khoảng thời gian của đời sống, mà còn rất mực quan trọng và đầy ý nghĩa trong những giây phút cuối của đời người. Hộ niệm lúc lâm chung trong giới hạn được hiểu, tức là gấp rút chuyển hóa chúng sanh trong những giây phút cuối của đời sống.

Hộ niệm lúc lâm chung nhìn từ lịch sử kinh điển

Khi hay tin vua Tịnh Phạn có khả năng không qua khỏi, Đức Phật đã thân hành về gấp quê nhà để giáo hóa cho cha. Trên giường bệnh, với bảy ngày còn lại của cuộc đời, với sự khai thị tràn ngập tình thương yêu của Đức Phật, vua Tịnh Phạn đã chứng tứ quả A la hán trước khi xả báo thân. Với Đức Phật, tình thương là phổ quát và không chỉ dừng lại ở người thân. Kinh ghi: Có một tân Tỷ kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh, vừa nghe mấy chữ “tân Tỷ kheo” và “bệnh nặng”, Đức Phật đã thân hành thăm hỏi và giáo giới để cuối cùng, Tỷ kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu: “Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt(4). Mặc dù bận rộn trong nhiều Phật sự, nhưng khi hay tin Tôn giả Phagguna bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cận lâm chung, Đức Phật đã tùy cơ nghi quang lâm hóa độ(5). Sự phù hợp, đúng lúc đúng thời trong khi thuyết pháp là một trong những đặc tính của Đức Thế Tôn.

Xuyên suốt hệ thống kinh tạng Nikaya, ta có thể gặp rất nhiều trường hợp Đức Phật hoặc đệ tử của Ngài như ngài Xá Lợi Phất, ngài A Nan… đã trực tiếp thuyết giảng cho người sắp chết. Đặc biệt như trưởng giả Cấp Cô Độc, tận tụy một đời phụng Phật và Tăng, nhưng khi lâm chung cũng không dám để Phật bận tâm nhiều, mà chỉ cho người thay mình đến đảnh lễ vấn an Đức Phậtcầu thỉnh ngài Xá Lợi Phất giáo giới. Kinh ghi: Này bạn, hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch như sau: “Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”. Rồi đi đến Tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất), sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, cư sĩ Cấp Cô Ðộc bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Cấp Cô Ðộc xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Sariputta vì lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Ðộc”(6). Một đời tận lực phụng sự Tam bảo, thế mà đến phút cuối của đời mình cũng không dám phiền nhiễu đến Đức Thế Tôn, điều đó đủ thấy tầm mức vĩ đại của một cận sự nam trung kiên thời Đức Phật. Với những nghiệp nhân đã thực hiện trong đời, cộng với sự giáo giới kịp thời của Tôn giả Xá Lợi Phất, trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi thân hoại mạng chung liền sanh lên cõi Tusita (Ðâu Suất thiên)(7).

Từ những trường hợp vừa nêu, có thể nhận thấy rằng thời thuyết giảng, giáo giới trước khi lâm chung luôn được Phật và chúng Tăng chú trọng. Phải chăng trong quan điểm của Đức Phật, khoảng thời gian trước khi lâm chung được xem là thời khắc vàng, có ảnh hưởngchi phối đến sự vận hành của đời sống tiếp theo?

Thời khắc vàng và nội dung giáo giới

Bằng tuệ quán siêu việt, Đức Phật nhận thấy rằng được sanh làm người là một cơ may lớn, vì rất ít là chúng sanh được tái sanh làm người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra ngoài loài Người(8). Đã được làm người và được nghe diệu pháp quả là hạnh phúc lớn lao. Tuy nhiên, được nghe pháp đúng thời và thẩm sát ý nghĩa đúng thời có thể được xem là thời khắc vàng của đời sống theo kinh Tăng Chi(9). Bởi lẽ, mặc dù khi sống, chúng sanh chưa thoát khỏi năm hạ phần kiết sử như: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân, nhưng trong những giây phút cuối của đời sống, được gặp Thế Tôn, được nghe thế Tôn thuyết pháp(10) vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Hoặc giả như tuy không được thấy Thế Tôn, nhưng được thấy đệ tử của Ngài thuyết pháp(11). Sau khi nghe thuyết pháp, tâm vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Theo kinh Tương Ưng(12), một khi đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử thì người đó sẽ vĩnh viễn không còn trầm luân vì đã đặt một chân đầu tiên vào dòng Thánh.

Nếu như khát vọng của Nho gia: “Sáng nghe đạo, chiều chết cũng cam”(13), thì ở đây, Đức Phật tin tưởng rằng, nếu như bất cứ ai siêng năng trong năm việc và một trong năm việc, đó là tin Phật một cách bất động và sâu sắc, thì nếu được giảng dạy buổi chiều, thời chứng được sự thù thắng buổi sáng, nếu được giảng dạy buổi sáng, thời sẽ chứng được sự thù thắng buổi chiều(14). Ở đây, khả tính giải thoát sở dĩ diễn ra nhanh hoặc chậm tùy thuộc mức độ nỗ lực cũng như thiện căn đã gieo trồng của mỗi chúng sanh.

Cần phải thấy rằng, đời sống của con người vốn dĩ ngắn ngủi và càng ngắn ngủi hơn đối với bất kỳ ai đang lâm bệnh nặng. Do vậy, trong khoảng thời gian này, những nội dung thiết yếu, căn bản của pháp hành giải thoát cần được trang bị cho người bệnh. Nếu như chưa được quy ythọ trì ngũ giới thì tùy theo điều kiện nhân duyên, điều kiện biệt nghiệp của từng người, giúp họ hoàn thành tâm nguyện. Bởi lẽ khi và chỉ khi một người phát nguyện quy y Tam bảohành trì Ngũ giới, thì họ mới chính thức trở thành một vị cư sĩ, đệ tử tại gia của Đức Phật(15). Ngoài việc khơi dậy niềm tin bất động với Phật với Pháp với Tăng cũng như ý thức hành trì nghiêm chỉnh học giới của người cư sĩ(16); cần phải trang bị thêm nhận thức về ba tính chất xuyên suốt của đời sống như vô thường, vô ngã và khổ.

Từ thực tế bài pháp của Tôn giả Xá Lợi Phất giáo giới cho cư sĩ Cấp Cô Độc, giáo lý vô ngã đã được Tôn giả Xá Lợi Phất khéo léo trình bày. Vô ngã ở đây được giảng dạy là không chấp thủ, nghĩa là ý thức không mắc dính, không chấp trước vào bất cứ điều gì thuộc ngoại giới hay nội tâm. Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ(17). Trường hợp giáo giới cho Tỳ kheo đang bệnh nặng Vakkali, cũng là một minh chứng sinh động trong việc trang bị cho người cận tử ba pháp ấn quan trọng này(18).

Với hàng chúng sanh nghiệp trọng, ý thức chấp thủ là một trong những hạn chế dẫn họ tái sanh trong khổ cảnh. Đặc biệt, đối với người cư sĩ tại gia nói chung, thì ý thức chấp thủ vào vợ con, tài sản luôn nổi trội hơn bình thường. Do vì một đời cực nhọc, lao tâm khổ trí để dành dụm của cải, do vì các mối liên hệ thân thuộc như cha mẹ, vợ chồng người thân… đã cố kết từ lâu; cho nên ý thức chấp thủ sẽ trào dâng và trở nên mạnh mẽ vào lúc này. Do vậy, cần phải khéo léo trang bị cho người bệnh thái độ buông bỏ, xả ly. Ở đây, không những trong hệ thống kinh tạng Nikaya mà cả hệ thống kinh điển Bắc truyền, đã ghi lại rất nhiều trường hợp do vì bám víu, chấp thủ vào thời điểm cận tử, nên phải chấp nhận bị cuốn vào dòng xoáy bất tận của sanh tử, luân hồi.

Như vậy, ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, nội dung buổi thuyết giảng làm hành trang cho người cận tử theo kinh điển Nikaya bao gồm việc triển khai niềm tịnh tín bất động với ba ngôi Tam bảo, trình bày cũng như hoàn thiện các học giới, củng cố việc liễu tri tính chất vô thường vô ngã của sự vật, hiện tượng. Nếu như người nghe hội đủ các thiện căn đã vun đắp từ nhiều kiếp trước đó, thì có khả năng hoàn thành thánh vị dự lưu hoặc các phẩm vị cao hơn trước khi xả báo thân này. Trong trường hợp nghiệp căn còn nặng, thì ít nhất, với sự hỗ trợ và chuẩn bị ấy, người cận tử sẽ có một tâm thế an lành làm hành trang cho kiếp lai sinh. Lợi ích thiết thực nhất đối với người cận tử, đó là “Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng, có ưa nghe, có lóng tai, có an trú tâm liễu giải, nắm giữ điều lợi ích, bỏ qua điều không lợi ích, thành tựu tùy thuận nhẫn nhục. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-khưu, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp”(19). Nói chính xác, sẽ được dự lưu phần trong Thánh quả. Một thời khắc không dài nhưng hứa hẹn những tín hiệu tươi sáng cho đời sống vị lai, nếu như ai đó đủ duyên và chuyên tâm nỗ lực. Đó cũng là điều để lý giải tại sao Đức Phật cũng như các vị Thánh tăng thời ấy, luôn quan tâm và xem đấy như là biểu hiện sinh động cho tâm từ bi, mong mỏi độ thoát chúng sanh trong những cơ may cuối của kiếp người.

Mẫu hình cư sĩ độ sanh

Thời xưa gặp Phật đã khó, thời nay được gặp chúng Tăng trong phút cuối của đời người lại càng khó bội phần. Do vậy, việc tự mình giúp đỡ người thân, cũng là một trong những việc làm quan trọng và thiết thực của người Phật tử. Câu chuyện Cha mẹ Nakula(20) là một minh chứng sinh động về việc tương trợ lẫn nhau trong phút giây nguy khốn của đời người. Theo kinh, cha của Nakula bệnh nặng, khó lòng qua khỏi, nằm trên giường bệnh, vô số điều lo nghĩ thiện và bất thiện thôi thúc và dằn vặt tâm tư: là trụ cột kinh tế của gia đình, nếu ông ra đi mà chưa kịp chuẩn bị, thì mẹ con biết nương dựa vào đâu? Con có lẽ sẽ thiếu học, thiếu ăn và nhà cửa có thể sẽ bị bán? Hoặc, vợ mình còn trẻ đẹp thế này, mình chết sớm, có lẽ bà ấy sẽ tái giá mất thôi. Đôi khi, cũng có những tư tưởng thanh cao hơn được phát khởi: khi còn mình, bà ấy còn đi nghe pháp, còn lên tinh xá gặp Phật và chư Tăng, nghiêm trì học giới, khi mình mất rồi, bà ấy có còn thực hiện các việc lành này không?… Vô vàn điều suy nghĩ thiện và bất thiện đồng loạt khởi lên, cuộn chặt tâm tư u ám.

Sợ chồng mình đọa lạc vì trong giây phút mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến, mẹ của Nakula vừa thuận thứ hứa khả, vừa dẫn dắt tâm tư của chồng. Bà bảo rằng: ông à, nếu ông mất đi, có lẽ tôi sẽ vất vả hơn, nhưng tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu và để cuối cùng, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa. Ông đừng suy nghĩ quẩn quanh về việc tôi sống ra sao khi thiếu ông và thậm chí đừng quá bận tâm về tiết hạnh của một phụ nữ góa chồng, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã sống thực hành Phạm hạnh như thế nào, đó là điều mà ông hoàn toàn hiểu rõ. Về việc hộ trì Tam bảo và thăng tiến tâm linh, ông càng đừng lo, vì sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn, sẽ muốn yết kiến chúng Tăng nhiều hơn. Trên phương diện hành trì học giới của người cư sĩ, dù ông không có ở gần để nhắc nhở, nhưng ông hãy an tâm đi, cho đến khi nào, các nữ đệ tử gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn giữ giới luật một cách đầy đủ, tôi là một trong những người ấy.

Mặc dù gia chủ Nakula vượt qua trọng bệnh, nhưng những tâm tư rất thực của ông, cùng những lời chia sẻ chân thành của người vợ hiền, đáng được xem là sự điển hình trong tư duy và tính mẫu mực, như pháp, trong việc hỗ trợ lẫn nhau vào giây phút cuối của người tại gia cư sĩ. Thông điệp chuyển tải từ câu chuyện, đó chính là: chớ có mạng chung với tâm còn mong cầu ái luyến.

Chuẩn bị cho chuyến viễn hành

Không có cái gì sinh mà không già, không chết(21). Chân lý đó được Phật vận dụng nhiều phương tiện để chỉ bày, nhằm trang bị một nhận thức thường trực trong suy nghĩ của chúng sanh. Nếu như được nuôi dưỡng thường trực quán niệm ấy, thì khi nhân duyên chín muồi, thuật ngữ Phật học gọi là sung mãn, thì cánh cửa bất tử sẽ được mở ra cho hành giả.

Song song với việc tư duy về tính chất phổ quát vừa nêu ở trên, trầm tư về yếu tố không bền vững, không ổn định, bấp bênh của mọi sự vật hiện tượng luôn có khả năng xảy đến cho ta ở bất cứ nơi đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Quán chiếu vô thường là cách nói khác về trường hợp vừa mô tả. Thứ ba, mỗi tâm hành hay sự vật hiện tượng, sở dĩ chúng hiện hữu là do nhiều yếu tố hòa hợp mà thành. Nhận chân tính chất duyên sinh, vô ngã của sự vật hiện tượng cũng là một nội dung cần được trang bị. Và nếu như thực hiện được ba yếu tố quan trọng ở trên, hành giả đã và đang kiện toàn về lãnh vực nhận thức, về trí tuệ.

Mang thân phận con người nhưng để làm người đúng nghĩa, đúng với cái danh nghĩa đã mang, như trong kinh gọi là Danh phải tương xứng người(22), thì việc kiện toàn những nguyên tắc đạo đức căn bản của người cư sĩ tại gianăm giới, là một nội dung cần phải chuẩn bị. Nói cách khác, nghiêm chỉnh về học giới là một trong những tiêu chuẩn khi sống trong đời. Đặc biệt hơn, nếu như người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn(23), là điều được khẳng định và tán thán trong kinh.

Sống đã lo sợ nhiều bề, khi gần chết thì càng hoang mang tột độ. Muốn tĩnh tại, bình yên không hoang mang trong hiện tại và giữ được tâm bình lặng trong phút cuối của đời mình, thì ngay trong đời sống này, cần phải kiện toàn niềm tịnh tín Tam bảo một cách vững chãi. Học Phật để rồi tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Tam bảo với niềm tin chánh tín, đó là điều kiện cần để có được một thú hướng an vui. Ngoài ra, các học pháp bổ trợ như bố thí, phóng xả, vị tha… cùng những thiện pháp tương ưng cũng cần phải song song thực hiện.

Nếu thực hiện được như vậy thì dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra về thể xác, về thân mạng, dù đột tử mà chết hoặc chết với bất cứ lý do gì như: gặp con voi cuồng chạy; gặp con ngựa cuồng chạy; gặp người cuồng chạy; gặp cỗ xe lớn cuồng chạy; gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy(24), hoặc do hết thọ mạng mà chết, thì sanh thú hướng về sẽ là thiện thúthiện giới. Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định một cách mạnh mẽ và vững chãi, qua hình ảnh một thân cây khi bị đốn ngã, thì nó sẽ ngã xuôi về hướng mà thân cây từ trước tới nay đang hướng về(25). 

_____________________________________________

(1) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương 4, phẩm 8, kinh Già.

(2) Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng, kinh Hy vọng.

(3) Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo giới Channa.

(4) Kinh Tương Ưng, tập 4, thiên Sáu xứ, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần b, phẩm Bệnh, kinh Bệnh.

(5) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(6) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc.

(7) Kinh đã dẫn.

(8) Kinh Tương Ưng, tập 2, thiên Nhân duyên, chương IX, Tương ưng thí dụ, kinh Đầu ngón tay.

(9) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.

(10) Kinh đã dẫn

(11) Kinh đã dẫn

(12) Kinh Tương Ưng, tập 5, Thiên đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần a, phẩm Veludvara, kinh Dighavu.

(13) Luận Ngữ, thiên Lý Nhân: 朝聞道,夕死可矣.

(14) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Bồ Đề Vương Tử.

(15) Kinh Tương Ưng, chương 1, Tương ưng uẩn, phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.

(16) Kinh đã dẫn

(17) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo giới Channa.

(18) Kinh Tương Ưng, tập 3, chương I, tương ưng uẩn, phần e, phẩm Trưởng lão, kinh Vakkali

(19) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh Không ưa nghe.

(20) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, phẩm Cần phải nhớ, kinh Cha mẹ của Nakula.

(21) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương 3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Vua.

(22) Kinh Tương Ưng, tập 1, chương VII, Tương ưng Bà la môn, phẩm A La Hán thứ nhất, kinh Bất hại.

(23) Kinh Trường Bộ, tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn.

(24) Kinh Tương Ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 1.

(25) Kinh Tương ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 2.

Nguồn: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12064)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17983)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10615)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12685)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16578)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12669)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10902)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11951)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18017)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12175)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13050)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant