Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật thuyết Kinh Dược Sư Lưu Ly

26 Tháng Mười 201000:00(Xem: 29100)
Phật thuyết Kinh Dược Sư Lưu Ly


Phật thuyết Kinh Dược Sư Lưu Ly

Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức

Hán dịch: Đường Tam Tạng Pháp Sư HuyềnTrang

Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Tịnh Trí 

 

Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo, ba vạn sáu ngàn vị đại Bồ-tát, các hàng vua chúa, đại thần, nam nữ cư sĩ, và Bà-la-môn, tám chúng trời rồng, cùng người và không phải người, hết thảy đại chúng, số đông vô lượng, đồng vây quanh Phật, cung kính thỉnh ngài thuyết pháp.

Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, nương oai thần Phật, liền từ chổ ngồi đứng dậy, vén y bày vai bên phải, qùy xuống chấp tay, cung kính hướng về phiá Phật thưa rằng: “Bạch đức Thế- tôn! Xin ngài nói rõ danh hiệu, bổn nguyện rộng lớn, cùng những công đức thù thắng của các đức Phật, để cho những người nghe pháp nghiệp chướng tiêu trừ, và những chúng sanh trong đời tượng pháp về sau, đựơc nhiều lợi ích”.

Bấy giờ, Thế-tôn khen ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát:“ Hay thay! Hay thay! Văn Thù Sư Lợi! Nay ông đem lòng từ bi thỉnh cầu ta nói danh hiệu, bổn nguyện công đức của các đức Phật, vì muốn chúng sanh trong đời tượng pháp về sau, khỏi bị nghiệp chướng ràng buộc, lợi ích an vui. Nay hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, ta sẽ vì ông mà nói”. Văn Thù Sư Lợi thưa rằng: Bạch đức Thế-tôn! Chúng con rất muốn được nghe.

Này ông Văn Thù Sư Lợi! Phương đông cách đây rất xa, hơn cát của mười sông Hằng cõi Phật, có một thế giới tên Tịnh Lưu Ly. Đức Phật cõi đó hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh- túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự-trượng-phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế- tôn.

Này ông Văn Thù Sư Lợi! Đức Phật Dược Sư, khi còn tu hạnh Bồ-tát, đã phát mười hai nguyện lớn, giúp cho tất cả chúng sanh cầu chi được nấy.

Nguyện lớn thứ nhất: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, thì thân của con hào quang sáng suốt, rực rỡ chiếu khắp vô lượng, vô số, vô biên thế giới, giúp cho tất cả chúng sanh, sớm có đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc trượng phu, cùng với tám mươi vẽ đẹp trang nghiêm như thân con vậy.

Nguyện lớn thứ hai: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, thì thân của con như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, tinh sạch, không có nhơ bợn, hào quang chói lọi khắp nơi, công đức cao vời như núi Tu-di, thân ấy an trú ở giữa từng lưới dệt bằng tia sáng, tỏ hơn nhật nguyệt. Chúng sanh trong cõi U-minh, đều được soi sáng, cho nên tâm trí mở mang, tùy ý muốn đến chỗ nào để làm các sự nghiệp gì cũng đều được cả.

Nguyện lớn thứ ba: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, thì con vận dụng vô lượng trí tuệ, cùng các phương tiện, để độ hết thảy chúng sanh, và giúp cho họ có đủ vật dụng, không để cho ai phải chịu thiếu thốn.

Nguyện lớn thứ tư: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh tu theo tà đạo, thì con giúp họ quay về an trụ trong đạo Bồ-đề, hoặc có những người tu hạnh Thanh-văn, Duyên-giác con cũng dùng pháp đại thừa để nhiếp độ họ.

Nguyện lớn thứ năm: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh, nhiều đến vô lượng vô biên ở trong giáo pháp của con, tu hành phạm hạnh, thì con sẽ giúp cho họ giữ được giới pháp hoàn toàn, đầy đủ ba nhóm tịnh giới. Giả sử, có người phá phạm giới pháp, nếu nghe được danh hiệu con, thì họ liền đựơc phục hồi thanh tịnh, khỏi bị đọa vào trong ba đường ác.

Nguyện lớn thứ sáu: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh thân hình hèn hạ, các căn không đủ, xấu xa khờ khạo, tai điếc, mắt đui, nói năng ngọng nghịu, tay chân tật nguyền, lác hũi, điên cuồng, phải chịu nhiều thứ bệnh khổ, nếu nghe được danh hiệu con, thì họ liền được thân hình đoan chánh, tâm tánh thông minh, các căn đầy đủ, không còn bệnh khổ ấy nữa.

Nguyện lớn thứ bảy: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh bị bệnh hiểm nghèo, không ai cứu chữa, không nơi nương nhờ, không gặp được thầy được thuốc, không có bà con nhà cửa, phải chịu nhiều nỗi nghèo hèn khốn khổ, nếu nghe được danh hiệu con, dù chỉ một lần, thì những bệnh khổ, đều được tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến sum vầy, của cải sung túc, cho đến chứng được đạo qủa Vô-thượng Bồ-đề.

Nguyện lớn thứ tám: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có người nữ nào bị trăm điều hèn hạ khổ sở, làm cho buồn rầu, bực tức, sanh tâm nhàm chán muốn bỏ thân nữ, như nghe được danh hiệu con, liền chuyển thân nữ thành nam, có đủ nam tướng, cho đến chứng được đạo qủa Vô-thượng Bồ-đề.

Nguyện lớn thứ chín: Con nguyện đời sau, khi chứng được qủa Vô-thượng Bồ-đề, thì con sẽ giúp hết thảy chúng sanh ra khỏi vòng lưới ma nghiệp, được thoát khỏi sự ràng buộc của các ngoại đạo. Nếu có người nào bị sa vào rừng ác kiến, thì con nhiếp độ cho họ trở về chánh kiến, dần dần tu hạnh Bồ tát, để mau chứng được đạo quả Vô-thượng Bồ- đề.

Nguyện lớn thứ mười: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh bị phạm luật pháp, phải bị xiềng xích đánh đập, hoặc bị giam giữ trong chốn lao tù, hoặc bị hành hình, hay gặp nhiều nạn nhục nhã, thân tâm chịu những buồn rầu khổ bức, nếu nghe được danh hiệu con, thì nhờ oai thần phước đức của con, thì những khổ ấy, đều được tiêu trừ.

Nguyện thứ mười một: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh gặp nạn đói khát hoành hành, vì tìm miếng ăn phải tạo nghiệp ác, nhưng nghe được danh hiệu con, hết lòng ghi nhớ thọ trì, thì con trước tiên dùng các ẩm thực ngon lạ, ban bố cho thân họ được no đủ, sau đem pháp vị nhiệm mầu nhiếp độ cho họ luôn được an lạc.

Nguyện thứ mười hai: Con nguyện đời sau, khi chứng được quả Vô-thượng Bồ-đề, nếu có chúng sanh, nghèo đến không áo che thân, bị muỗi mòng cắn, nóng lạnh giải dầu, ngày đêm khổ bức, nếu nghe được danh hiệu con, hết lòng ghi nhớ thọ trì, thì con sẽ giúp cho họ mọi việc đều được như y,ù các thứ y phục tốt đẹp, bảo vật trang nghiêm, tràng hoa phấn sáp bát ngát mùi thơm, trống nhạc cùng với ca múa tùy tâm thưởng thức món nào cũng được mãn nguyện.

Này ông Văn Thù Sư Lợi! Đó là mười hai lời nguyện nhiệm mầu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai phát ra trong khi tu hạnh Bồ-tát.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đức Phật Dược Sư, khi còn tu hạnh Bồ-tát, có phát những nguyện rộng lớn, và những công đức thù thắng trang nghiêm ở cõi của ngài, dù nói một kiếp hay hơn một kiếp cũng không hết được. Nhưng ta nói rằng, ở cõi Phật kia hoàn toàn thanh tịnh, không có đàn bà không có đường dữ, cả đến tiếng khổ cũng không.

Cõi ấy đất toàn bằng chất lưu ly, đường đi có dây bằng vàng giăng làm ranh giới, thành quách cung điện, lầu gác, mái hiên cửa sổ, cho đến các lưới bao phủ cũng bằng toàn đồ thất bảo làm ra, chẳng khác gì những công đức trang nghiêm ở cõi Tây-phương Cực-lạc.

Cõi đó có hai vị đại Bồ-tát, hiệu là Nhựt Quang Biến Chiếu, cùng với Nguyệt Quang Biến Chiếu, chính là hai vị đứng đầu ở trong vô lượng, vô số Bồ-tát, và sắp bổ xứ làm Phật, cũng là bậc có đầy đủ năng lực giữ gìn kho báu chánh pháp của Phật Dược Sư.

Này ông Văn Thù Sư Lợi! Nếu có chúng sanh lòng tin vững chắc, thì nên nguyện sanh về cõi Đông phương của phật Dược Sư.

Bấy giờ, Thế-tôn bảo ngài Văn Thù Sư Lợi: Có những chúng sanh, không biết lành dữ, ôm lòng tham lam, bỏn xẻn, không biết bố thí, và sự lợi ích bố thí là gì, vô minh che lấp, thiếu hẳn đức tin, lại tham chứa chất của cải cho nhiều, đêm ngày bo bo gìn giữ, thấy ai đến xin, lòng đã không muốn, nhưng cực chẳng đã phải đưa của ra, thì lại đau đớn mến tiếc, dường như lóc thịt cho người. Lại có vô lượng chúng sanh tham lẫn keo kiết, chỉ lo tích trữ của cải cho nhiều, chính mình không dám ăn tiêu, nói chi đem của cải ấy thí cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ hay những người nghèo đến xin. Những kẻ tham ấy, khi chết đọa vào ngạ quỷ, hoặc đọa súc sanh. Mặc dù ở trong ác thú, nhưng nhờ đời trước sống trong nhân gian, đã từng nghe qua danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, nay còn nhớ niệm danh hiệu đến ngài, thì từ cõi ấy thoát sanh làm người. Khi được làm người, nhớ lại kiếp sống trong đường ngạ quỷ súc sanh, biết sợ đau khổ, nên không ưa đắm dục lạc, lại còn tự mình làm việc bố thí, khen ngợi người khác bố thí, không tham món gì, lần lần có thể đem cả đầu mắt, tay chân, máu thịt của chính thân mình, bố thí cho kẻ đến xin, huống chi của cải là những vật thừa.

Lại nữa, Văn thù sư lợi! Nếu có chúng sanh thọ giới của Phật, rồi lại phá giới. Hoặc không phá giới mà lại phá các phép tắc. Hoặc không phá giới, và các phép tắc mà lại phá hoại chánh kiến. Hoặc không phá hoại chánh kiến, mà lại bỏ sự đa văn, nên không hiểu biết nghĩa lý sâu xa trong kinh Phật dạy. Hoặc tuy đa văn mà khởi lên lòng khinh mạn, do lòng khinh mạn che mờ tâm trí, cố chấp cho mình là phải, người khác là quấy, chê bai chánh pháp, kết đảng với ma. Những kẻ ngu ấy, tự mình đi theo tà kiến, lại còn làm cho vô số chúng sanh, cũng bị sa vào hố sâu nguy hiểm. Các chúng sanh ấy, mãi mãi trôi lăn ở trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh không khi nào cùng. Nhưng nếu nghe được danh hiệu cuả đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, thì họ liền bỏ điều dữ, tu theo pháp lành, sẽ không bị đọa vào ba đường ác. Giả sử, có người không bỏ điều dữ, không tu pháp lành, mà phải bị đọa vào ba đường ác đi nữa, cũng nhờ oai lực bổn nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, mà làm cho họ sẽ tạm nghe được danh hiệu của ngài, từ nơi ác thú mạng chung sanh lại làm người, tinh tấn tu hành, có được chánh kiến, khéo biết điều phục tâm ý, xuất gia xa lià thế tục, thọ trì tu học các pháp cuả Phật, mà không phá phạm giới pháp, lại thêm chánh kiến, đa văn, hiểu thấu nghĩa lý sâu xa, lìa lòng khinh mạn, không chê chánh pháp, không bạn với ma, dần dần tu hạnh Bồ-tát, sớm được viên mãn.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu có chúng sanh tham lam tật đố, khen mình chê người, thì họ sẽ bị đọa trong ba đường, trải qua vô lượng ngàn năm, chịu nhiều đau đớn thống khổ. Khi hết đau khổ, đến lúc lâm chung, liền từ nơi đó sanh lại cõi người, phải làm thân trâu, ngựa lừa, lạc đà, thường bị hành hạ đánh đập, và bị đói khát giày vò, phải đi đường xa chở nặng, cực nhọc muôn phần, nếu may làm được thân người, lại sanh vào hạng hạ tiện, phải làm tôi tớ cho bao kẻ khác, mãi bị sai sử không chút tự do. Nhưng trong đời trước, những nhân vật ấy, khi còn làm người, đã từng nghe qua danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, do nhân lành đó ngày nay nhớ lại, chí tâm quy y với ngài, nhờ oai thần ngài gia hộ, mà thoát mọi sự khổ não, các căn thông lợi, trí tuệ sáng suốt, đa văn thường cầu diệu pháp, thường gặp bạn lành, đời đời dứt hẳn lưới ma, đập nát các vỏ Vô-minh, tát cạn các sông phiền não, sẽ được giải thoát khỏi nạn sanh lão, bệnh tử và những đau khổ lo buồn.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu có chúng sanh nhiều lòng sân hận, ưa sự gây gổ, xích mích tranh đấu, kiện cáo lẫn nhau, làm não cho mình và người, do thân miệng ý tạo nhiều ác nghiệp, thường làm việc không lợi ích, để hại lẫn nhau, hoặc là tấu triệu những thần ở rừng núi cây, mồ mã hại người, hoặc giết chúng sanh lấy máu, lấy thịt, tế quỷ Dược-xoa và quỷ La-sát, để cậy bọn quỷ hại người, hoặc biên tên họ, rồi làm hình tượng của người thù oán, rồi dùng tà thuật thư yếm phù chú, thuốc độc cho đến tụng chú hại người. Nếu có chúng sanh bị các hiểm nạn như thế, mà nếu nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, thì các tà ác không thể hại được. Những kẻ ác kia, trái lại khởi lòng từ bi, làm việc lợi ích an vui cho bao người khác, mà không có ý tổn hại, và tâm hiềm giận. Hai bên hòa hảo với nhau, đối với những vật thọ dụng của mình, tự vui biết đủ, không xâm lấn nhau, mà còn giúp đỡ lẫn nhau.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu trong bốn chúng tỳ-kheo, và tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ, cùng những chúng sanh, nếu có lòng tin trong sạch, nhận lãnh thọ trì tám phần trai giới, hoặc trong một năm hay là mỗi năm ba tháng, vâng giữ giới pháp, làm nơi nương tựa tu học. Rồi đem căn lành này nguyện sanh về thế giới Tây-phương Cực-lạc để nghe chánh pháp, nhưng chưa quyết định, nếu như nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, khi sắp lâm chung, sẽ có tám vị Bồ tát như ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, ngài Quán Thế Âm Bồ-tát, ngài Đại Thế Chí Bồ-tát, ngài Vô Tận Ý Bồ-tát, ngài Bảo Đàn Hoa Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dược Thượng Bồ-tát, cùng ngài Di Lặc Bồ-tát. Tám vị Bồ-tát từ trên không trung, hiện ra đưa đường chỉ lối, liền được vãng sanh trong những hoa báu đủ màu. Hoăïc có người nương nguyện lực của Phật Dược Sư, mà được sanh lên cõi trời. Mặc dù sanh lên cõi trời, nhưng nhờ căn lành sẵn có, sẽ không còn bị đọa vào ba đường ác nữa. Sau khi tuổi thọ cõi trời đã hết, thì sanh vào trong cõi người, hoặc được làm vua Chuyển-luân, thống nhiếp bốn châu thiên hạ, oai đức tự tại, giáo hoá vô lượng trăm ngàn chúng sanh, tu tập theo mười điều thiện. Hoặc sanh dòng Sát-đế-lợi, dòng Bà-la-môn, Cư-sĩ giàu sang của tiền dư dật, kho chứa tràn đầy, tướng mạo đoan trang, quyến thuộc sum vầy, sẽ được thông minh trí tuệ, dũng mãnh oai hùng như người lực sĩ. Lại nếu có người nữ nào nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, người đó hết lòng thọ trì, thì trong đời sau, sẽ không còn làm thân nữ.

Này ông Văn Thù Sư Lợi! Khi đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, chứng được đạo quả Vô-thượng Bồ-đề, thì do oai lực bổn nguyện mà ngài quán sát, thấy biết chúng sanh sẽ gặp các thứ bệnh khổ, như bệnh da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt thương hàn, hoặc trúng những thứ phù yếm, bùa chú, thuốc độc, hoặc bị chết non, chết oan. Muốn cho bệnh ấy đều được tiêu trừ, và lòng mong cầu của chúng sanh được toại nguyện, cho nên đức Phật Dược Sư liền nhập đại định gọi là: Diệt Trừ Hết Thảy Khổ Não. Khi ngài nhập định, từ trên đỉnh đầu phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng nói thần chú Đà-la-ni: Nam mô bạt già phạt đế, bệ sát xã, lu lô tịch lưu ly, bác lặc bà, hắt ra xà dả. Đát tha yết đa da, a ra hắc đế. Tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.

Lúc ấy, trong luồng ánh sáng nói chú này rồi, tất cả đại địa thảy đều chấn động, phóng ra ánh quang minh lớn, làm cho tất cả chúng sanh dứt hết bệnh khổ, hưởng được an vui.

Này ông Văn Thù Sư Lợi! Nếu có người nào đang bị bệnh khổ, thân quyến của họ nên vì người bệnh, tắm rửa sạch sẽ, nhất tâm tụng niệm chú này đến một trăm lẽ tám lần, chú nguyện vào trong đồ ăn, thuốc uống hay trong nước không vi trùng, đem cho người bệnh ăn uống, thì mọi bệnh khổ liền được tiêu trừ.

Nếu có người nào mong cầu việc gì, hết lòng tụng niệm chú này, sẽ được toại nguyện, không bệnh sẽ được sống lâu, sau khi mạng chung sẽ được sanh về cõi Tịnh Lưu Ly, không còn thoái chuyển, lần lần tu học mau chứng đạo quả Vô- thượng Bồ-đề.

Này ông Văn Thù Sư Lợi! Nếu có người nào hết lòng tôn trọng, cung kính, cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, thì nên trì tụng chú này, đừng bỏ lãng quên.

Lại nữa, nếu có chúng sanh nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, mỗi sớm thức dậy, súc miệng đánh răng, tắm gội sạch sẽ, dâng hoa thắp hương, thoa xức dầu thơm, cùng các âm nhạc, cúng dường hình tượng của Phật Dược Sư, đối với kinh này tự mình hay dạy người khác đọc tụng, biên chép, hết lòng thọ trì và phải cúng dường chư vị giảng pháp đừng để các vị thiếu thốn. Nếu được như vậy, thì nhờ chư Phật gia hộ, các sự mong cầu đều được toại nguyện, cho đến chứng được đạo qủa Vô-thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát thưa rằng: Bạch đức Thế-tôn! Trong đời tượng pháp về sau, con nguyện sẽ dùng đủ các phương tiện, giúp cho chúng sanh nào có lòng tin trong sạch, thì sẽ được nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, dù trong giấc ngủ của họ, con cũng sẽ dùng danh hiệu của Phật Dược Sư, thức tỉnh nơi tai cho họ rõ biết.

Bạch đức Thế-tôn! Nếu có người nào tự mình hay dạy người khác đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này, hết lòng cung kính tôn trọng thọ trì, và dâng các thứ hương hoa, hương bột, hương đốt, vòng hoa, chuổi ngọc, tràng phan, bảo cái cùng các âm nhạc, múa hát cúng dường, hoặc dùng tơ lụa năm màu may đảy đựng kinh, rồi dọn một nơi cao sạch, để kinh trên đó, sẽ có bốn Đại Thiên Vương, cùng các quyến thuộc, và nhiều vô lượng trăm ngàn thiên chúng, ở các cõi khác đều đến cúng dường bảo hộ.

Bạch đức Thế-tôn! Nếu chổ nào có kinh này lưu hành, hoặc người thọ trì, hoặc có người nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, thì nhờ công đức bổn nguyện của ngài, mà chổ ấy không bị nạn chết oan, cũng không bị những quỷ ác, thần ác đoạt mất tinh khí, dù có đoạt mất đi nữa, cũng được hoàn lại, thân tâm yên ổn khỏe mạnh như thường.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát: Thật đúng như lời ông nói, này ông Văn Thù Sư Lợi! Nếu chúng sanh nào có những lòng tin trong sạch, thì trước phải nên tạo vẽ hình tượng của Phật Dược Sư, để trên tòa cao, chưng dọn sạch sẽ, sắm các lễ vật cúng dường, hương hoa, tràng phan, bảo cái trang nghiêm ở chổ thờ đó, và thọ tám phần trai giới, trong bảy ngày đêm, ăn đồ thanh chay, tắm gội và mặc y phục chỉnh tề, giử thân miệng ý thanh tịnh, không nên sát sanh, nói dối, oán hận, đối với tất cả chúng sanh phải khởi các tâm bình đẳng, từ bi, hỷ xả, thương xót mọi loài, làm cho tất cả đều được lợi ích an vui, đi nhiễu vòng quanh bên phải tượng Phật, dùng các thứ nhạc, múa hát, ngợi khen, cúng dường hình tượng. Lại phải nghĩ nhớ công đức bổn nguyện của Phật Dược Sư, đọc tụng kinh này, suy nghiệm nghĩa lý, rồi giảng cho người khác nghe. Làm được như vậy, thì những ước nguyện, sở cầu đều được như ý, như cầu sống lâu sẽ được sống lâu, muốn cầu giàu sang sẽ được giàu sang, muốn cầu quan vị sẽ được quan vị, cầu sanh con trai con gái, thì sẽ được sanh con trai con gái.

Lại có người nào ở trong giấc ngủ thấy những ác mộng, khi thức lại thấy ác tướng như là chim đậu vườn nhà, chổ ở hiện ra trăm điều quái dị, người đó hết lòng nhớ niệm danh hiệu, chiêm lễ, dùng những của báu cung kính cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, thì những ác tướng thảy đều ẩn hết, không còn lo sợ gì nữa.

Nếu có người nào gặp nạn nguy hiểm như là nước lửa, gươm đao, thuốc độc và các thú dữ gây sự sợ hãi như voi, sư tử, cọp sói, gấu beo, rắn độc, bò cạp, rít sâu, lằng muỗi. Người đó, hết lòng nhớ niệm danh hiệu, chiêm bái, cung kính, cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, thì liền được thoát các nạn nguy hiểm. Hoặc bị nước khác xâm lăng, nhiễu hại, trộm cướp, nội loạn, thì phải hết lòng nhớ niệm danh hiệu, chiêm bái, cung kính, cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, thì liền được thoát các hiểm nạn ấy.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Nếu chúng sanh nào mà có lòng tin trong sạch, từ khi phát tâm thọ giới cho đến ngày mất, không thờ những vị trời nào, một lòng quy y theo Phật, Pháp, Tăng thọ trì giới cấm như là tại gia năm giới, sa di mười giới, tỳ kheo có hai trăm năm mươi giới, tỳ kheo ni có ba trăm bốn mươi tám giới, còn Bồ-tát giới có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh, nếu có vị nào phá phạm giới pháp đã thọ, nên sợ bị đọa vào ba đường ác, thì phải hết lòng nhớ niệm danh hiệu, chiêm bái, cung kính, cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, chắc chắn người đó sẽ không bị đọa vào ba đường ác.

Lại nếu có các sản phụ trong lúc sanh sản, phải chịu đau khổ, thì nên hết lòng nhớ niệm danh hiệu, chiêm bái, cung kính, cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, thì mọi khổ não liền được tiêu trừ, lại được mẹ tròn con vuông, đứa trẻ sanh ra tướng mạo đoan trang, thông minh, sáng suốt, an ổn, ít bị bệnh hoạn, ai thấy cũng đều ưa mến, lại không bị quỷ đoạt mất tinh khí.

Lúc ấy, Thế-tôn bảo ngài A-nan: Như ta khen ngợi công đức của Phật Dược Sư, đó là công hạnh sâu xa của các đức Phật, khó hiểu thấu được, vậy ông có tin hay không? Tôn giả A- nan thưa rằng: Bạch đức Thế-tôn! Những lời của chư Phật nói không bao giờ con sanh tâm nghi ngờ. Tại sao? Vì ba nghiệp thân khẩu y,ù của các đức Phật thảy đều thanh tịnh. Bạch đức Thế-tôn! Mặt trời, mặt trăng có thể rơi xuống, núi đại Tu-di có thể lay động, nhưng lời của chư Phật nói, tuyệt không bao giờ sai được. Bạch đức Thế-tôn! Nếu có chúng sanh đức tin không đủ, khi nghe đến những công hạnh sâu xa của các đức Phật, thì nghĩ: Làm sao chỉ niệm danh hiệu của một đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, mà được lợi ích và nhiều công đức thù thắng như thế. Vì sự không tin, sanh lòng hủy báng, nên họ phải mất nhiều điều lợi lớn, mãi ở trong cảnh đêm dài tâm tối, lại còn bị đọa trong các đường ác, trôi lăn sanh tử không cùng.

Đức Phật bảo ngài A-nan: Những chúng sanh đó, nếu như nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, hết lòng thọ trì, tâm không sanh nghi, mà lại bị đọa vào ba đường ác thì thật vô lý. Này ông A-nan! Đó là công hạnh sâu xa nhiệm mầu của các đức Phật, khó tin, khó hiểu, nay ông lãnh thọ, thì phải biết đó là nhờ oai lực của đức Như-lai. Này ông A-nan! Các hàng Thanh-văn, Duyên-giác, và các Bồ-tát chưa lên đến bậc Thập-địa thì không thể tin hiểu đúng như thật, chỉ trừ những bậc Nhất Sanh Sở Hệ Bồ-tát mới tin hiểu được. Này ông A-nan! Thân người khó được, nhưng nếu hết lòng tin kính tôn trọng Tam-bảo lại còn khó hơn, huống chi nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai còn khó hơn nữa. Này ông A-nan! Đức Phật Dược Sư, đã tu không biết bao nhiêu các hạnh Bồ-tát, đã dùng không biết bao nhiêu phương tiện khéo léo, đã phát không biết bao nhiêu nguyện lớn, nếu ta nói trong một kiếp hay hơn một kiếp, thì kiếp số đó có thể mau hết, nhưng những hạnh nguyện, phương tiện khéo léo của Phật Dược Sư, thì không bao giờ nói cho hết được.

Bấy giờ, ở trong chúng hội có một vị đại Bồ- tát tên là Cứu-thoát, liền từ chổ ngồi đứng dậy, vén y trần vai bên phải, quỳ xuống, cung kính, chấp tay thưa rằng: Bạch đức Thế-tôn! Trong đời tượng pháp về sau, nếu có chúng sanh bị nhiều tai nạn khổ ách, luôn luôn tật bệnh, thân hình gầy ốm, ăn uống không được, môi cổ khô rang, mắt thấy đen tối, tướng chết hiện ra, cha mẹ quyến thuộc, bè bạn quen biết vây quanh khóc lóc. Thân của người bệnh nằm đó, đã thấy sứ giả đến dẫn thần thức đem lại trước mặt Diêm-vương, liền đó vị thần Câu-sanh đem sổ tội phước của người tội đó dâng lên Diêm-vương.

Bấy giờ, vua liền xét hỏi, rồi tính tội phước người kia đã làm, tuỳ theo nặng nhẹ, mà phán xét xử. Lúc đó, nếu có bà con quen biết, vì người bệnh ấy, đối trước hình tượng của Phật Dược Sư quy y với ngài, và thỉnh chư tăng đọc tụng kinh này, đốt đèn bảy từng, treo phan tục mạng năm màu, hoặc trong lúc ấy, hoặc qua bảy ngày, hai mươi mốt ngày, ba mươi lăm ngày, bốn mươi chín ngày, thần thức người bệnh liền được trở lại như vừa tỉnh giấc chiêm bao, tự mình nhớ biết nghiệp lành, nghiệp dữ, và sự quả báo đã thọ. Bởi chính đã thấy nghiệp báo như vậy, dù gặp tai nạn nguy hiểm cả đến tánh mạng, cũng không dám tạo những nghiệp ác nữa. Vì vậy, chúng sanh nào có lòng tin trong sạch, phải nên thọ trì danh hiệu, và tuỳ sức mình cung kính cúng dường hình tượng của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai.

Bấy giờ, tôn giả A-nan hỏi ngài Cứu-thoát Bồ-tát: Kính thưa Bồ-tát! Phải nên cung kính cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư thế nào? Còn đèn và phan tục mạng phải làm cách sao? Cứu-thoát Bồ-tát trả lời: Đại-đức! Nếu có người nào muốn khỏi bệnh khổ, quyến thuộc cuả họ trong bảy ngày đêm, phải giữ tám phần trai giới, tuỳ theo sức mình sắm sửa lễ vật, ẩm thực, cúng dường chư tăng, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, đọc tụng kinh này bốn mươi chín lần, thấp bốn mươi chín ngọn đèn, tạo bảy hình tượng của Phật Dược Sư, trước mỗi hình tượng để bảy ngọn đèn, mỗi ngọn lớn như bánh xe, đốt luôn trong bốn mươi chín ngày đêm đừng để cho tắt, thần phan may bằng tơ lụa năm màu, dài bốn mươi chín gang tay, phóng sanh bốn mươi chín thứ loài vật, thì người bệnh ấy qua khỏi ách nạn, không còn bị nạn chết oan và các ác quỷ nhiễu hại.

Lại nữa, này ông A-nan! Nếu trong dòng Sát- đế-lợi có những vua chúa làm lễ lên ngôi, đang lúc nhân dân trong nước gặp phải các nạn bệnh dịch, nước khác xâm lăng, nội loạn hay bị thiên tai, tinh tú biến ra nhiều điềm quái dị, nhật thực, nguyệt thực, mưa gió trái mùa , hạn hán, bão lụt, thì vị vua đó phải đem lòng từ, thương xót tất cả dân chúng, ân xá cho các tội nhân đang bị giam cầm, rồi y theo pháp đã nói, cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư. Do căn lành này, và nhờ oai đức bổn nguyện của Phật Dược Sư, làm cho trong nước liền được an ổn, mưa hòa gió thuận, lúa thóc được mùa, tất cả dân chúng đều được vui vẽ, không bị bệnh hoạn, không có các thần Dược-xoa bạo ác não hại lê dân, và các ác tướng thảy đều ẩn mất, vị vua chúa đó lại được sống lâu, khỏe mạnh, mọi việc đều thêm lợi ích.

Này ông A-nan! Nếu các hoàng hậu, hoàng phi, công chúa, thái tử, vương tử, đại thần, tể tướng, thể nữ trong cung, bá quan, cùng các lê dân, nếu ai gặp các bệnh khổ và những ách nạn, nên làm thần phan năm màu, thắp đèn sáng luôn, phóng sanh các thứ loài vật, rải hoa đủ màu, đốt các hương thơm, cúng dường hình tượng đức Phật Dược Sư, thì được lành bệnh và thoát những ách nạn ấy.

Lúc ấy, tôn giả A-nan hỏi ngài Cứu-thoát Bồ-tát: Kính thưa Bồ-tát! Tại sao tuổi thọ đã hết mà vẫn còn sống thêm được? Cứu-thoát Bồ-tát trả lời: Đại-đức! Ngài không nghe đức Thế-tôn nói có chín thứ chết oan hay sao? Vậy ta khuyên người làm phan và đèn tục mạng, tu các phước đức, nhờ thế cho nên suốt đời không bị khốn khổ, hoạn nạn.

Tôn giả A-nan lại hỏi: Chín thứ chết oan là gì? Cứu-thoát Bồ-tát trả lời:

Một là nếu chúng sanh nào bị bệnh tuy nhẹ, nhưng không gặp thầy, gặp thuốc, không người chăm sóc, nếu gặp được thầy mà lại cho uống lầm thuốc, nên bệnh không đáng phải chết, mà bị chết oan. Hoặc lúc đang bệnh, tin theo họa phước vu vơ của bọn tà ma ngoại đạo, yêu nghiệât trong đời, sanh lòng rung sợ, mất hết tự chủ, không có chánh kiến, đi xem bói toán, tìm hỏi mối họa, rồi giết sanh vật cúng tế quỷ thần, vái van các loài yêu quái, mong cầu ban phước, xin được sống lâu, nhưng mà chung cuộc không thể nào được toại ý. Tại vì si mê lầm lạc, tin theo tà kiến điên đảo, nên bị chết oan, đọa vào địa ngục đời đời không thoát ra khỏi.

Hai là bị phạm luật pháp mang án tử hình mà chết. 

Ba là say đắm chơi bời săn bắn, đam mê tửu sắc, buông lung vô độ, bị các loài quỷ đoạt mất tinh khí mà chết.

Bốn là chết thiêu.

Năm là chết đắm.

Sáu là bị các thú dữ ăn thịt mà chết.

Bảy là rơi từ núi cao mà chết.

Tám là bị các thuốc độc, thư yếm, chửi rủa, trù ẻo, và quỷ tử thi làm hại mà chết.

Chín là đói khát khốn khổ mà chết.

Đó là chín thứ chết oan mà đức Thế-tôn đã dạy, còn những thứ chết oan khác nhiều đến vô lượng, vô số không thể nói hết.

Lại nữa A-nan! Diêm-vương là chủ ghi chép sổ bộ tên tuổi, tội phước ở trong nhơn gian. Nếu chúng sanh nào bất hiếu cha mẹ, phạm năm tội nghịch, hủy báng Tam-bảo, phá phạm giới cấm, thì ông Diêm-vương tùy tội nặng nhẹ xử phạt. Vì thế, ta khuyên chúng sanh phải nên thắp đèn, làm phan, phóng sanh tu phước, thì sẽ không còn gặp phải các nạn khổ ách.

Bấy giờ, ở trong pháp hội có mười hai vị Dược-xoa Đại-tướng như là:

Tướng Cung Tỳ La

Tướng Phạt Chiếc La

Tướng Mê Suý La

Tướng An Để La

Tướng Ngạch Nễ La

Tướng San Để La

Tướng Nhơn Đạt La

Tướng Ba Di La

Tướng Ma Hổ La

Tướng Chơn Đạt La

Tướng Chiêu Đỗ La

Tướng Tỳ Yết La

Mười hai vị Đại-tướng này, mỗi vị đều có bảy ngàn Dược-xoa để làm quyến thuộc, tất cả đều thưa: Bạch đức Thế-tôn! Hôn nay chúng con nương nhờ oai lực của đức Như-lai, mà được nghe đến danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như-lai, thì chúng con không còn sợ bị đọa vào các đường ác, và đồng trọn đời quy y nơi Phật, Pháp, Tăng thề sẽ gánh vác cho những chúng sanh làm việc nghĩa lợi, đưa đến các sự lợi ích, an vui. Bất cứ nơi nào làng xóm, thành ấp, hoặc trong rừng cây vắng vẻ, nếu có kinh này lưu hành, hay nếu có người hết lòng thọ trì danh hiệu, cung kính, chiêm lễ, cúng dường, hình tượng đức Phật Dược Sư, chúng con cùng hàng quyến thuộc, thảy đều hộ vệ người đó, thoát khỏi ách nạn, và giúp cho họ mong cầu việc chi cũng được toại ý. Nếu có người nào bị bệnh khổ ách, muốn cầu cho khỏi, thì nên trì tụng kinh này, dùng chỉ tơ sợi năm màu kết tên chúng con, khi được như lòng mong cầu thì mới mở ra.

Lúc đó, Thế-tôn khen các Dược-xoa Đại- tướng: Hay thay! Hay thay! Dược-xoa Đại-tướng! Các ông nghĩ muốn báo đáp ân đức của Phật Dược Sư, nên mới phát nguyện làm việc lợi ích, an vui cho những chúng sanh như vậy.

Bấy giờ, tôn giả A-nan thưa rằng: Bạch đức Thế-tôn! Kinh này tên gọi là gì? Chúng con thọ trì cách nào? Phật dạy tôn giả A-nan: Kinh này gọi là: Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai Bổn Nguyện Công Đức; cũng gọi là kinh: Mười Hai Dược Xoa Đại Tướng Kết Nguyện Thần Chú Làm Lợi Chúng Sanh; còn gọi là kinh: Diệt Trừ Hết Thảy Nghiệp Chướng. Nên đúng như vậy thọ trì.

Khi đức Thế-tôn nói kinh này xong, chư đại Bồ-tát, Thanh-văn, vua chúa, đại thần, nam nữ cư sĩ, và Bà-la-môn, tám chúng trời rồng, cùng người và không phải người, hết thảy đại chúng nghe lời Phật dạy vui mừng, tin chịu vâng làm.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11596)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16499)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19585)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11911)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11807)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12576)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15620)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13571)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11123)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant