Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô thường, bản chất của luân hồi

21 Tháng Tám 201100:00(Xem: 31665)
Vô thường, bản chất của luân hồi

VÔ THƯỜNG, BẢN CHẤT CỦA LUÂN HỒI
Thứ bảy ngày 30 tháng 7 nãm 2011, Tin tức năm 2011

blankChúng tôi vừa mới kết thúc một vài phần trong chương trình giảng pháp tại Ladakh. Tôi gần như chẳng nhớ chương trình bắt đầu khi nào, vì có cảm giác như mới hôm qua thôi chúng tôi vẫn còn bận rộn chuẩn bị cho mọi việc. Thời gian trôi như bay và đây thực sự là một bài pháp vĩ đại về vô thường. Hầu như những gì tôi đã lên kế hoạch đều đã không diễn ra như dự kiến. Tôi viết sẵn một vài tin bài, hy vọng rằng chúng sẽ tự động được đăng lên vào ngày giờ “đã định”, song tôi lại quên mất không chọn nút “Đồng ý” trong mục “Đồng ý đăng bài” Vậy nên có lẽ tôi sẽ cần thêm một chút thời gian để chỉnh lại những bài viết này trước khi gửi tới cho các bạn.

Đây là một minh họa cho đời sống của chúng ta. Chúng ta luôn lo lắng chuẩn bị trước bao nhiêu thứ. Chúng ta muốn hoàn thành việc này và đạt được điều kia. Thế nhưng trong hầu hết các trường hợp, nếu bạn để tâm xem xét lại, trừ khi bạn thực sự là bậc thần thánh hoặc là người vô cùng may mắn, nếu không thì mọi chuyện chẳng hề diễn ra đúng như bạn đã dự định hay mong muốn. Chính vì thế nên tôi vẫn luôn nhắc rằng, “Hãy sống với hiện tại”. Ngày hôm qua đã trôi qua rồi, ngày mai sẽ không bao giờ đến, nhưng nếu chúng ta có đủ trí tuệ để nắm bắt và hân hưởng khoảng thời gian hiện tại thì tương lại sẽ nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta. Đây chính là bí quyết. Đề nghị bạn sống với hiện tại không có nghĩa là bạn không cần quan tâm tới tương lai. Nhưng do bản chất của luân hồi, chúng ta vẫn liên tục bị xô đẩy phải tiến về phía trước. Vì thế nên hễ khi nào có thể nắm bắt được thời khắc hiện tại, mỗi thời khắc, càng nhiều càng tốt, thì đó đã là một thành tựu vượt bậc, bởi để đạt tới điều đó chúng ta sẽ làm mọi việc trong sự tỉnh giácý thức rõ ràng về những gì đang diễn ra trong hiện tại, như vậy thực chất chúng ta đang thực hành thiền định hay đang thiền định về cuộc sống của chính mình. Bất cứ khi nào tỉnh giác, chúng ta đều ý thức rõ ràng về mọi nghiệp thân, khẩu, ý của mình. Chẳng hạn như do biết rõ nếu phạm phải nghiệp bất thiện, chúng ta sẽ phải chịu nghiệp quả báo ứng ngay trong đời này hoặc trong các đời sau, như vậy với sự hiểu biết đó, nếu chúng ta luôn giác tỉnh trong hiện tại thì chúng ta sẽ không bao giờ lầm lạc. Chúng ta sẽ không làm gì tổn hại tới người khác, ngược lại chúng ta còn luôn giúp đỡ mọi người, mang lại hạnh phúc và sự lợi lạc cho hết thảy chúng sinh, những điều đó chắc chắc sẽ dẫn chúng ta tới hạnh phúc an vui.

Có nhiều người đề nghị tôi hướng dẫn cách thiền định. Đương nhiên có rất nhiều phương pháp. Một trong những phương pháp thực tiễn nhất chính là sống với thời khắc hiện tại, và hiểu rằng vô thường chính là đặc tính của luân hồi. Nếu không hiểu được điều này, chúng ta sẽ có một cuộc sống đầy bám chấp, và như vậy chính là tìm kiếm khổ đau. Bản chất của luân hồi là khổ đau vì chúng ta không thể nào nương tựa vào những thứ mình yêu thích hay trốn tránh những gì mình ghét bỏ. Chúng ta luôn ở trong một vòng quay, luôn đuổi theo một điều gì đó.

Vậy chúng ta có nên tuyệt vọng khi biết rằng mình đang sống trong luân hồi đau khổ. Đương nhiên là không nên, vì chúng ta còn có rất nhiều cơ hội để chuyển hóa cuộc sống từ tiêu cực trở nên tích cực bằng cách chuyển hóa tâm của mình. Chuyển hóa cách chúng ta nhìn nhận người khác, cách chúng ta sống. Đức Phật đã thuyết giảng cho chúng ta về Tứ diệu đếBát chính đạo. Chúng ta cần hiểu về lý thuyết, và trong thực tiễn đời sống chúng ta áp dụng thực hành những gì đã hiểu.

Xin gửi lời tri ân tới chính phủ Ấn Độ đã tạo mọi điều kiện về an ninh cũng như thu xếp mọi việc ổn thỏa để tôi được đón tiếp rất chu đáo. Với sự giúp đỡ của đội bảo an và người dân địa phương, đã có hơn 10,000 người tới tham dự và hân hưởng những thời khắc quý giá tại Nyoma, một nơi rất hiếm khi có khách du lịch ghé thăm. Chúng tôi đã kết thúc chương trình hoàn toàn viên mãn. Đặc biệt xin tri ân ban tổ chức, nhất là đạo hữu thân thiết của tôi là Ngài Drukpa Choegon Rinpoche, người đã dành cho tôi sự đón tiếp tận tình. Ngài cũng chính là người sẽ đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Hội đồng ADC sắp tới. Tôi có niềm tin vững chắc rằng nhất định Ngài sẽ giúp chúng ta có được một khoảng thời gian tuyệt vờiHội đồng ADC sắp tới sẽ được đón nhận vô lượng ân phúc gia trì từ Ngài cũng như từ Tam Bảo. Tôi tin chắc Hội đồng ADC sẽ tràn đầy đạo vịthành công tốt đẹp.

Tôi mong muốn sẽ được gặp lại tất cả mọi người trong số 10,000 người đã tới tham dự lần này, từ khắp các vùng miền của Ladakh, những người đã cùng nhau ở lại đây trong 10 ngày qua để đón nhận giáo pháp và sự hướng đạo. Dưới đây là một số bức ảnh xin chia sẻ cùng các bạn.

blankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblankblank

Những ngày này tôi cảm thấy thật xót thương cho chú chó Shonnu vừa mới bị đột tử. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với chú. Khi phụ thân tôi và mọi người tìm thấy thì chú đã chết rồi. Bác sĩ cho hay chú bị trúng độc. Tôi tự hỏi không hiểu tại sao chú lại ngộ độc? Có lẽ do chú đã nghịch ngợm gì đó, hay là giết hại những thú hoang như chuột, hay có ai đó đã vứt chất độc trong vườn. Nếu chỉ nói về bản thân mình, tôi cảm thấy như mất đi một người thân trong gia đình, nên sự việc này thật đáng buồn đối với cá nhân tôi. Nhưng nếu nhìn ra xung quanh, tôi hiểu rằng có rất nhiều người và loài vật bị sát hại mỗi ngày, vì thế tôi không nên chỉ biết chú trọng vào mất mát của riêng mình. Thế nhưng, tôi mong rằng nhân đây có thể chia sẻ tin này với các bằng hữu và đệ tử bởi lẽ đây là một bài pháp lớn lao, không chỉ đáng thương thay cho chú chó của riêng tôi. Bạn có thể là vị vua, là hoàng đế, là người vô cùng giàu có, hay bạn có thể là người ăn mày, là kẻ trộm, tên sát nhân, bất kể dù bạn là ai, là loại người gì thì bạn cũng đang ở trong vòng luân hồi, nghĩa là một ngày nào đó chúng ta đều sẽ chết, đều sẽ phải chia xa người thân, kẻ thùtài sản của mình. Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng được phần nào, còn đâu ta không mang theo được bất kỳ thứ gì, chỉ có nghiệp duyên với rất nhiều món nợ.

Tôi rất đau lòng khi biết rằng có những người bạn, mặc dù có tri thức về Phật Pháp và biết về nhân quả nghiệp báo nhưng vẫn tiếp tục làm những điều bất thiện, đặc biệt là những người làm giàu bằng nhiều thủ đoạn bất lương như cướp đi sinh mạng hay hãm hại người khác. Một số người có thể ngưỡng mộ họ vì sự giàu cóquyền lực. Nhưng nếu bạn kiểm chứng điều gì đang đợi họ phía cuối con đường thì bạn sẽ thấy rằng chẳng có gì ngoài ác báo và những chủ nợ đang chờ họ. Cho dù chúng ta có tin vào nhân quả nghiệp báo hay không, thì đối với họ, sẽ chẳng có an bình, sẽ không có ánh sáng, chỉ thêm nhiều khổ đau mà thôi. Điều quan trọng là ngay bây giờ, ngay giây phút này, chúng ta phải xác quyết rằng chớ nên lãng phí cuộc đời mình. Nếu bạn chỉ có mỗi đời sống này thôi, bạn sẽ làm gì nếu bạn muốn tự dohạnh phúc chân thật? Hãy tự vấn lương tâm nếu hãm hại sinh linh khác liệu có mang lại hạnh phúc chân thực hay không. Tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng nó chỉ đem lại nhiều đau khổ phiền não cho bạn hơn mà thôi.

Như Đức Phật đã dạy thật rõ ràng: “Kiếp sống phù du thu mây bay. Sinh tử khác nào vũ điệu say. Đời người mạng mỏng như chớp lóe, Trôi nhanh như thác đổ non ghềnh”. Vậy tại sao không biết trân quý cuộc sống này, sao không đem lại hạnh phúc chân thật cho chính mình và sống một cuộc đời tràn đầy ý nghĩa lợi ích cho tha nhân. Đây là đôi điều nhắn nhủ tôi mong muốn gửi tới các bạn, những bằng hữu và học trò của tôi.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11945)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11100)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12060)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12551)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10761)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17972)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11722)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9942)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15335)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11237)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14325)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12092)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15356)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11996)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12084)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14834)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12674)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19655)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13104)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12661)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11842)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13516)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11627)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12761)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14512)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12611)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13041)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10296)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15303)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16605)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11463)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19696)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14145)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24602)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant