Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Lục tự chân ngôn - Sự hợp nhất của từ bitrí tuệ

24 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13181)
8. Lục tự chân ngôn - Sự hợp nhất của từ bi và trí tuệ

MANDALA - SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
THEO QUAN KIẾN KIM CƯƠNG THỪA
Giáo Pháp Từ Chuyến Viếng Thăm Việt Nam 2010
của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa XII

LỤC TỰ CHÂN NGÔN
SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị
Giảng pháp và truyền quán đỉnh Quán Âm
tại Chùa Quan Âm, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ngày 28.3.2010

blank

blankLời đầu tiên tôi xin bày tỏ niềm tri ân sâu sắc đến chư tôn đức Tăng Ni, đặc biệtNi Trưởng trụ trìchư Tăng Ni tại trụ xứ chùa Quan Âm Tu Viện cùng với tất cả Phật tử gần xa có duyên câu hội về đạo tràng này. Tôi xin cầu nguyện cuộc viếng thăm này sẽ đem lại một chút ánh sáng của đạo Pháp tới quý Phật tử Việt Nam nói riêng và người Việt Nam nói chung. Theo tôi biết, về phương diện lịch sử, đất nước và con người Việt Nam đã có rất nhiều mối liên hệ với Phật giáo. Chúng ta cần làm những gì có thể để tiếp tục trưởng dưỡng mối liên hệ truyền thống này. Xin cảm niệm sự ủng hộ nhiệt thành của chính phủ Việt Nam, đặc biệt là Thành hội Phật giáo Hà Nội, đã có giấy mời tôi và Tăng đoàn Truyền thừa Drukpa tới Việt Nam để chia sẻ những Giáo Pháp quý giá của Đức Phật, vì lợi ích của hết thảy hữu tình, để đem lại hòa bình và sự phát triển phồn vinh cho đất nước.

Đất nước cần hòa bình, cần phát triển vật chất, cả hai phương diện này đều dựa trên sự hiểu biết tâm linh. Nếu bạn không có sự hiểu biết tâm linh, bạn sẽ gặp khó khăn để phát triển hai khía cạnh chính là tâm linhvật chất trong cùng một lúc. Một lần lữa tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý vị, đã câu hội về đây để nhận quán đỉnh của Bồ Tát Quan Thế Âm, đồng thời tôi cũng xin chân thành cáo lỗi vì để quý vị đã chờ một thời gian khá lâu, trong một ngày thời tiết rất nóng bức.

Hôm nay chúng tôi được thỉnh truyền trao quán đỉnh về Bồ Tát Quan Thế Âm, với câu chân ngôn Lục tự Đại minh chân ngôn: “Om mani padme hung”. Trước hết tôi xin giảng sơ qua về ý nghĩa của câu chân ngôn này.

OM là tượng trưng cho năng lượng của vũ trụ, là sự kết hợp hài hòa của năng lượng từ bitrí tuệ như nhau. MANI là ngọc như ý tượng trưng cho lòng từ bi không bị phá hủy. PADME là hoa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh của bản chất tự nhiên, hay sự thanh tịnh nguyên thủy. HUNG tượng trưng cho sự viên mãn thành tựu. Như vậy “Om Ma Ni Pad Me Hung” là tượng trưng cho năng lượng vũ trụ, cùng với năng lượng không thể phá hủy bản chất thanh tịnh nguyên sơ, những phẩm chất của chính nó sự chứng ngộ viên mãn. Bất kỳ ai thực hành trì niệm câu chú này, sẽ thành tựu sự hợp nhất huyền bí của năng lượng và sự thanh tịnh.

Đạo Phật thường nói về sự kết hợp trí tuệtừ bi, hay trí tuệtình thương yêu, ở đây cũng nói sự kết hợp giữa Ma Ni và Pad Me tượng trưng cho sự kết hợp giữa Trí tuệTừ bi. Tình yêu thương được tượng trưng bởi ngọc ma ni hay kim cương, tượng trưng cho năng lượng. Padme tượng trưng cho sự hiểu biết hay sự thanh tịnh, hiểu biết rằng vạn vật vốn thanh tịnh từ nguyên sơ gọi là trí tuệ, nếu khôngtrí tuệ này thì gọi là không thanh tịnh và đầy sự phá hủy. Chúng ta đều cần ban trải tình thương tới tất cả mọi người, mọi loài và đặc biệt tới chính bản thân mình. Ví dụ bạn cần phải biết cách thương yêu mình để có thể thương yêu người khác. Nếu bạn không thể yêu thương chính mình thì bạn không yêu thương người khác. Bởi vậy chúng ta cần có trí tuệ để biết cách yêu thương chính mình.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất là vào hiện giờ, những hiểu biết hiện tại của chúng ta đều đa phần là sai lầm, vô minh. Vì thế chúng ta rất cần có trí tuệ, nếu khôngtrí tuệ mà chỉ có yêu thương thì đây gọi là yêu thương theo bản năng của loài người vẫn thường có. Tất cả loài người đều có bản năng là sự yêu thương nhưng chúng ta không biết cách sử dụng nó, hay nói cách khác, chúng ta không có trí tuệ. Bởi thế tình yêu thương đã hoạt động không đúng, nhiều khi tình thương yêu còn bị lạm dụng. Chính vì thế mà việc trưởng dưỡng trí tuệ nơi mỗi người là điều vô cùng cần thiết.

Câu chân ngôn “Om MaNi PadMe Hung” có rất nhiều ý nghĩa thể hiện sự kết hợp giữa trí tuệ và tiềm năng yêu thương. Tình yêu thương phải được trưởng dưỡng bằng trí tuệ. Trí tuệ cần phát triển thông qua thiền quán.

Thiền quán có hai khía cạnh: Một là tư duy hiểu biết theo đúng chân lý, đúng sự thật. Và một cách thiền quán khác là sự cầu nguyện, sự gia trì thông qua việc mở rộng trái tim mình. Hai khía cạnh Thiền quán này rất cần thiết để khai mở trí tuệ. Nếu hoa sen tượng trưng cho trí tuệ thì tư duy thiền quán giống như mặt trời giúp hoa sen được khai nở. Vậy chúng ta cần thiền quán tư duy giống như mặt trời, loại thiền quán về chân lý và sự cầu nguyện để đón nhận sự gia trì tâm linh. Như thế chân ngôn Lục tự giống như một lời cầu nguyện, một kỹ thuật thiền quán, cả hai kết hợp trong câu chân ngôn này.

Như tôi đã nhắc đến ở trên, tình thương yêu cũng cần được khai mở và trưởng dưỡng. Do thiếu trí tuệ để khai mở tình thương nên hiện tại chúng ta có một tâm lý yếu ớt, hạn hẹp và bảo thủ. Song có một thực tếm là chúng ta đều muốn mình khoẻ khoắn, nếu không đủ khoẻ chúng ta sẽ không thể sống và tồn tại trên thế giới này, hoặc nếu có sống thì cũng rất ốm yếu khốn khổ, sống với giận giữ, tật đố, vô minh cùng với tất cả những xúc tình phiền não khác. Để có thể loại bỏ tất cả những loại xúc tình phiền não này, chúng ta cần có tâm mạnh khoẻ. Nếu tâm mạnh khoẻ thì các xúc tình không thể đem lại bất kỳ sự đau đớn nào cho ta. Cuộc sống sẽ trở nên tuyệt vờihoàn hảo hơn với một tinh thần mạnh khỏe.

Trí tuệ sẽ giúp chúng ta khai mở tình yêu thương, nếu khôngtrí tuệ thì tình yêu thương sẽ mãi khép kín, tâm chúng ta sẽ mãi chật hẹp và đầy thủ chấp. Trong kinh điển Phật giáo có dạy rằng: loài người hay các loài hữu tình nói chung, như các loại động vật trên thế giới này đều có tình thương. Tình thương có mặt ở khắp, thậm chí những người xấu xa nhất trên thế giới này, hay những loài động vật xấu xa nhất đều sẵn có tình thương. Nhưng chỉ vì tình yêu thương đó chưa hợp nhất được với trí tuệ, nên tình thương đó như đang ngủ say, năng lượng của tình thương đang bị sử dụng sai đường, nên tình yêu thương chuyển thành xấu, và là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều khổ đau. Bởi vì sử dụng sai năng lượng hay sai động cơ, nên dẫn tới rất nhiều vấn đề rắc rối trên thế giới.

blankCâu chân ngôn “Om Ma Ni Pad Me Hung” có công dụng kết hợp tình thương yêu tự nhiênchúng ta sẵn có với trí tuệ hiểu biết, vì thế đây là câu chân ngôn có tầm quan trọng đặc biệt và người ta thường trì tụng chân ngôn này như bài nhật tụng, cùng với sự nhất tâm hướng tới Bồ Tát Quan Thế Âm. Thông thường, không những chúng ta chỉ sử dụng sai tình thương yêu mà còn có xu hướng sử dụng nhầm nguồn năng lượng quý giá của con người, vì thế năng lượng cũng cần kết hợp với sự hiểu biết. Điều này rất quan trọng, vì loài người đều sống dựa vào tình yêu thương, cho nên tình thươngvô cùng cần thiết.

Chúng ta có thể trưởng dưỡng được tình yêu thương thông qua sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm! Đây là một điều rất phổ thông, cần được thực tập không chỉ trong Kim Cương Thừa mà cả trong Hiển giáo. Cho nên Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị Bồ tát được rất nhiều người biết đến, không những trong đạo Phật mà cả những người không phải Phật giáo. Họ đều tập trung theo pháp của Bồ Tát Quan Thế Âm, tôi đã thấy rất nhiều ở Trung Quốc và các nước khác ở Châu Á, thậm chí những người không phải Phật tử, họ đều tin tưởng Bồ Tát Quan Thế Âm. Bởi họ biết tầm quan trọng của sự chuyển hoá tình yêu thương, nếu chúng ta không có sự chuyển hoá này, thì những sản phẩm của thân tâm chúng ta làm ra sẽ không lợi ích cho mình và người.

Thật ra từ vô thủy tới nay chúng ta đã có sẵn tình yêu thương, vì thế sự chuyển hoá thành trí tuệvô cùng quan trọng. Chúng ta tiếp tục thời pháp bằng cách sang tiếp phần giảng về cách thực hành Pháp triệu thỉnh để nhận sự gia trì từ Bồ Tát Quan Thế Âm.

Như tôi đã đề cập sáng nay, chúng ta là những Phật tử của Nguyên thủy Phật giáo, Đại Thừa, hay Kim Cương Thừa. Cho dù chúng ta không có lý do gì để cầu nguyện đến sự gia trì, nhưng chúng ta cũng đều cần đón nhận sự gia trì. Đức Phật Thích Ca từng dạy rằng mỗi chúng ta cần có trách nhiệm với bản thân mình. Bởi vậy, việc cầu nguyện sự gia trì vẫn có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân chúng ta. Trong nghi quỹ này đề cập đến việc cầu nguyện sự gia trì, để phát triển xa hơn trong kiếp sống tương lai, trở thành một người tốt, một hành giả tốt của Phật giáo. Nếu không có sự gia trì, thì chúng ta không có sự nâng đỡ, khi có sự gia trì thì sự nâng đỡ hộ vệ luôn ở bên ta. Chúng ta cần sự nâng đỡ gia trì, để cuộc sống của chúng taý nghĩa, thành côngnhư ý, vì vậy sự gia trì rất cần thiết đối với đời sống hiện tại của chúng ta. Mọi thứ đều cần kết hợp với sự gia trì. Mọi sự thành đạt đều kết hợp với sự gia trì, có thể là sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc Văn Thù Sư Lợi, có thể sự gia trì của đức Liên Hoa Sinh hoặc sự gia trì của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bất kỳ sự gia trì của vị nào cũng đều là sự gia trì của đức Phật, của Như lai tạng, hay là sự gia trì của Bản tính tâm tự nhiên, đó là sự gia trì quan trọng nhất mà chúng ta tìm cầu. Không phải chúng ta mong cầu một sự thần bí, huyền hoặc nào hiện ra gia trì năng lực cho ta, mà chúng ta mong cầu một sự chuyển hoá chính ngay đời sống thường nhật của mình, đời sống của chúng ta mỗi ngày cần phải được cải thiện, như vậy được coi là sự gia trì.

Sự gia trì thường đến trong nhiều hoàn cảnh hình tướng khác nhau, đặc biệt trong Kim Cương Thừa chúng ta tin sự gia trì trong nhiều phương thức khác nhau, như mưa là sự gia trì, cầu vồng cũng là sự gia trì..., bất kỳ một hiện tượng gì cũng có thể là sự gia trì, nhưng rất tiếc chúng ta không hiểu, nên không đón nhận được điều đó. Mỗi chúng ta không nên sống ích kỷ. Ích kỷ có nghĩa là bảo thủbảo thủ tức là khép kín chỉ biết cho riêng mình.

Sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm có thể được thực hiện theo nhiều cách thức khác nhau. Trong Kim Cương Thừa chúng tatruyền thống của việc ban cho nước cam lộ mà bạn đã nhận, đó là một loại nước gia trì và sợi dây cát tường đeo cổ, dùng để hộ vệ cũng được coi là sự gia trì bảo vệ bạn, hay tất cả những lễ phẩm trong buổi lễKim Cương Thừa gọi theo một thuật ngữ đặc biệt là Ganachakra. Tất cả những lễ phẩm được dâng lên đây và sau đó được chia lại cho các bạn không phải là một bữa tiệc, mà đó là phẩm vật gia trì. Như tôi đã nói ở trước, sự gia trì là mưa, cầu vồng, gió, hay là một bóng cây che mát..., rất nhiều loại gia trì đến, nhưng do vô minh chúng ta không nhận ra được và bị lỡ cơ hội thọ nhận. Thực vậy, theo Kim Cương Thừa cuộc sống trên thế gian này tràn ngập sự gia trì nhưng chỉ vì chỗ hiểu nông cạn gây ra chướng ngạichúng ta không đón nhận được. Tuy thế, sự gia trì vẫn luôn sẵn ở bên ta, chỉ cần trì tụng câu chân ngôn “Om Ma Ni Pad Me Hung” rất nhiều lần, để hoa sen trí tuệ của chúng ta được trưởng dưỡng khai mở, thì chúng ta sẽ đón nhận và hân hưởng được trọn vẹn sự gia trì đó.

Ganachakra là một thuật ngữ mới lạ đối với các bạn, ý nghĩa của Ganachakra hay ý nghĩa của thuật ngữchúng tôi thường nói là “Sống để Yêu thương” không khác biệt nhau. “Chakra” là tình yêu thương tượng trưng cho các hoạt động, hoạt động của tình yêu thương còn “Gana”tượng trưng cho cuộc sống hay sự hợp nhất, sự hợp nhất chính là cuộc sống của chúng ta. Ví dụ nếu bạn muốn vỗ tay thì cần phải sử dụng hai tay, không thể dùng một tay. Như thế sự hợp nhất vẫn luôn ở đó để giúp mọi chuyện xảy ra thành tựu như ý. Nếu bạn muốn có lửa, thì cần phải có hai, ba duyên trở lên, nếu chỉ có một duyên không thể tạo thành lửa. Tất cả mọi hiện tượng trên thế giới, đều cần ít nhất hai

duyên trở lên kết hợp với nhau mới tạo thành một vật, như vậy đó là sự kết hợp của nhân duyên, hợp nhất của cuộc sống hay là Gana.

Thế nên Ganachakra nghĩa là sống để yêu thương, đó là cách nói trong ngôn ngữ thông thường, còn trong Đại Thừa gọi là Bồ đề tâm (hay Bodhicitta). Bodhi nghĩa là giác ngộ, Citta có nghĩa là trái tim giác ngộ. Còn trong Kim Cương Thừa là Ganachakra. Chakra là bánh xe, Gana là sự hợp nhất, nghĩa là bánh xe của sự hợp nhất, hay sống để yêu thương, hoặc yêu thương để sống, đó là Ganachakra. Các bạn cũng nên hiểu rõ những nghĩa này. Mọi người thường nhìn vào buổi lễ và cho đó là bữa tiệc, nhưng nó còn có nghĩa là một bữa tiệc thiện hạnh sống để yêu thương, hay bữa tiệc từ sự phát triển trọn vẹn Bồ đề tâm.

Như vậy là theo quan điểm thực hành của Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Đại Thừa hay Kim Cương Thừa thì nguyên lý căn bản của cuộc sống đều là phải sống với những thiện hạnh yêu thương để hàn gắn và chữa lành thế giới này. Điều đó có nghĩa bạn phải biết yêu thươngquan tâm săn sóc đến mọi người trên một tinh thần không vị kỷ để có thể chuyển hoá chính mình và thế giới. Cho nên trong Kim Cương Thừa có rất nhiều phương pháp để thực hành hạnh yêu thươngpháp cúng dường Ganachakra là một trong những phương pháp thiện xảo quan trọng đấy. Ví dụ trong pháp cúng dường này, tất cả lễ phẩm được chia như hoa quả, bánh kẹo... hay thức ăn đều tượng trưng cho hoạt động yêu thương, còn những thứ có thể uống được như sữa, nước trái cây, nước ngọt thì tượng trưng cho trí tuệ, sự hiểu biết hay giác ngộ. Hai loại thực phẩm và nước này tượng trưng cho hai phương pháp lớn, là phương tiện thiện xảo của tình yêu thương. Khi hiểu ý nghĩa này ta mới rõ pháp cúng dường Ganachakra nêu biểu phương pháp thực hành của Kim Cương Thừa, rất đặc biệt và đặc trưng cho Kim Cương Thừa, trong các Thừa khác không thấy có pháp này.

Cho nên chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa chân thực của việc nhận được các phần lộc này. Bạn cần phải uống nước ăn bánh…, và hãy tự nhủ với mình rằng: “Ta cần nắm giữ được các phương tiện thiện xảo giữa Từ bi và Trí tuệ”. Hãy khai mở, duy trì, trưởng dưỡng hai phẩm hạnh này trong cuộc đời và bạn sẽ tự nhiên thọ nhận sự gia trì đầy ân phước của Chư Phật.

Đến đây chúng tôi đã kết thúc những hướng dẫn vắn tắt về nguyên lý của Kim Cương Thừa về Bồ Đề Tâm, hay sự kết hợp giữa Từ biTrí tuệ. Tôi đã hướng dẫn chung cho các Phật tử về cách làm thế nào để sống hạnh phúc trên thế giới này, mặc dù chỉ qua những lời giải thích rất ngắn gọn, vì chúng ta không có nhiều thời gian, nhưng tất nhiên nếu có nhân duyên quay trở lại trụ xứ này, tôi vẫn sẽ nhắc lại những điều quan trọng trên với các bạn và hy vọng các bạn sẽ dần dần hiểu ra làm thế nào để sống một cách đúng đắn trên thế giới này thông qua các phương pháp thực hành khác nhau của Nguyên Thủy, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa. Cả ba thừa này đều là con đường giải thoát, mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã từ bi chỉ dạy cho chúng ta, cho nên chúng ta có thể chọn phương pháp phù hợp với căn cơ mình để tu tập theo một cách thật sự thoải mái. Tất cả chúng ta đến đây để giúp đỡ lẫn nhau, hy vọng là tôi không làm lãng phí thời gian của các bạn, và sự hiện diện cũng như chia sẻ của tôi sẽ trợ giúp vào những đời sống trong tương lai của các bạn.

Cầu nguyện rằng chúng ta sẽ có nhiều nhân duyên để gặp lại và tiếp tục trợ giúp để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho mình và mọi người ngày càng tốt đẹp hơn. Xin chân thành cảm ơn các bạn!

______________________________________

Bài liên quan:

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÚ, Đức Đạt-lai Lạt-ma thuyết giảng Hồng Như Việt dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29839)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27084)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21714)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22155)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23570)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20371)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20002)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21899)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24690)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18937)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24662)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30915)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23921)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27721)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26460)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21241)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23171)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38043)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18759)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18386)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19893)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 18968)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23096)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23838)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22748)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22867)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29519)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20579)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18653)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15798)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18786)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19595)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20103)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19893)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18070)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22841)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34114)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16378)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16867)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39117)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25986)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20054)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18769)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24009)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29044)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22871)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30865)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20955)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26797)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20620)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26188)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23273)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19771)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24592)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29943)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20166)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20361)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15094)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15778)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23813)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant