Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Lục tự chân ngôn - Sự hợp nhất của từ bitrí tuệ

24 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13206)
8. Lục tự chân ngôn - Sự hợp nhất của từ bi và trí tuệ

MANDALA - SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
THEO QUAN KIẾN KIM CƯƠNG THỪA
Giáo Pháp Từ Chuyến Viếng Thăm Việt Nam 2010
của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa XII

LỤC TỰ CHÂN NGÔN
SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị
Giảng pháp và truyền quán đỉnh Quán Âm
tại Chùa Quan Âm, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ngày 28.3.2010

blank

blankLời đầu tiên tôi xin bày tỏ niềm tri ân sâu sắc đến chư tôn đức Tăng Ni, đặc biệtNi Trưởng trụ trìchư Tăng Ni tại trụ xứ chùa Quan Âm Tu Viện cùng với tất cả Phật tử gần xa có duyên câu hội về đạo tràng này. Tôi xin cầu nguyện cuộc viếng thăm này sẽ đem lại một chút ánh sáng của đạo Pháp tới quý Phật tử Việt Nam nói riêng và người Việt Nam nói chung. Theo tôi biết, về phương diện lịch sử, đất nước và con người Việt Nam đã có rất nhiều mối liên hệ với Phật giáo. Chúng ta cần làm những gì có thể để tiếp tục trưởng dưỡng mối liên hệ truyền thống này. Xin cảm niệm sự ủng hộ nhiệt thành của chính phủ Việt Nam, đặc biệt là Thành hội Phật giáo Hà Nội, đã có giấy mời tôi và Tăng đoàn Truyền thừa Drukpa tới Việt Nam để chia sẻ những Giáo Pháp quý giá của Đức Phật, vì lợi ích của hết thảy hữu tình, để đem lại hòa bình và sự phát triển phồn vinh cho đất nước.

Đất nước cần hòa bình, cần phát triển vật chất, cả hai phương diện này đều dựa trên sự hiểu biết tâm linh. Nếu bạn không có sự hiểu biết tâm linh, bạn sẽ gặp khó khăn để phát triển hai khía cạnh chính là tâm linhvật chất trong cùng một lúc. Một lần lữa tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý vị, đã câu hội về đây để nhận quán đỉnh của Bồ Tát Quan Thế Âm, đồng thời tôi cũng xin chân thành cáo lỗi vì để quý vị đã chờ một thời gian khá lâu, trong một ngày thời tiết rất nóng bức.

Hôm nay chúng tôi được thỉnh truyền trao quán đỉnh về Bồ Tát Quan Thế Âm, với câu chân ngôn Lục tự Đại minh chân ngôn: “Om mani padme hung”. Trước hết tôi xin giảng sơ qua về ý nghĩa của câu chân ngôn này.

OM là tượng trưng cho năng lượng của vũ trụ, là sự kết hợp hài hòa của năng lượng từ bitrí tuệ như nhau. MANI là ngọc như ý tượng trưng cho lòng từ bi không bị phá hủy. PADME là hoa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh của bản chất tự nhiên, hay sự thanh tịnh nguyên thủy. HUNG tượng trưng cho sự viên mãn thành tựu. Như vậy “Om Ma Ni Pad Me Hung” là tượng trưng cho năng lượng vũ trụ, cùng với năng lượng không thể phá hủy bản chất thanh tịnh nguyên sơ, những phẩm chất của chính nó sự chứng ngộ viên mãn. Bất kỳ ai thực hành trì niệm câu chú này, sẽ thành tựu sự hợp nhất huyền bí của năng lượng và sự thanh tịnh.

Đạo Phật thường nói về sự kết hợp trí tuệtừ bi, hay trí tuệtình thương yêu, ở đây cũng nói sự kết hợp giữa Ma Ni và Pad Me tượng trưng cho sự kết hợp giữa Trí tuệTừ bi. Tình yêu thương được tượng trưng bởi ngọc ma ni hay kim cương, tượng trưng cho năng lượng. Padme tượng trưng cho sự hiểu biết hay sự thanh tịnh, hiểu biết rằng vạn vật vốn thanh tịnh từ nguyên sơ gọi là trí tuệ, nếu khôngtrí tuệ này thì gọi là không thanh tịnh và đầy sự phá hủy. Chúng ta đều cần ban trải tình thương tới tất cả mọi người, mọi loài và đặc biệt tới chính bản thân mình. Ví dụ bạn cần phải biết cách thương yêu mình để có thể thương yêu người khác. Nếu bạn không thể yêu thương chính mình thì bạn không yêu thương người khác. Bởi vậy chúng ta cần có trí tuệ để biết cách yêu thương chính mình.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất là vào hiện giờ, những hiểu biết hiện tại của chúng ta đều đa phần là sai lầm, vô minh. Vì thế chúng ta rất cần có trí tuệ, nếu khôngtrí tuệ mà chỉ có yêu thương thì đây gọi là yêu thương theo bản năng của loài người vẫn thường có. Tất cả loài người đều có bản năng là sự yêu thương nhưng chúng ta không biết cách sử dụng nó, hay nói cách khác, chúng ta không có trí tuệ. Bởi thế tình yêu thương đã hoạt động không đúng, nhiều khi tình thương yêu còn bị lạm dụng. Chính vì thế mà việc trưởng dưỡng trí tuệ nơi mỗi người là điều vô cùng cần thiết.

Câu chân ngôn “Om MaNi PadMe Hung” có rất nhiều ý nghĩa thể hiện sự kết hợp giữa trí tuệ và tiềm năng yêu thương. Tình yêu thương phải được trưởng dưỡng bằng trí tuệ. Trí tuệ cần phát triển thông qua thiền quán.

Thiền quán có hai khía cạnh: Một là tư duy hiểu biết theo đúng chân lý, đúng sự thật. Và một cách thiền quán khác là sự cầu nguyện, sự gia trì thông qua việc mở rộng trái tim mình. Hai khía cạnh Thiền quán này rất cần thiết để khai mở trí tuệ. Nếu hoa sen tượng trưng cho trí tuệ thì tư duy thiền quán giống như mặt trời giúp hoa sen được khai nở. Vậy chúng ta cần thiền quán tư duy giống như mặt trời, loại thiền quán về chân lý và sự cầu nguyện để đón nhận sự gia trì tâm linh. Như thế chân ngôn Lục tự giống như một lời cầu nguyện, một kỹ thuật thiền quán, cả hai kết hợp trong câu chân ngôn này.

Như tôi đã nhắc đến ở trên, tình thương yêu cũng cần được khai mở và trưởng dưỡng. Do thiếu trí tuệ để khai mở tình thương nên hiện tại chúng ta có một tâm lý yếu ớt, hạn hẹp và bảo thủ. Song có một thực tếm là chúng ta đều muốn mình khoẻ khoắn, nếu không đủ khoẻ chúng ta sẽ không thể sống và tồn tại trên thế giới này, hoặc nếu có sống thì cũng rất ốm yếu khốn khổ, sống với giận giữ, tật đố, vô minh cùng với tất cả những xúc tình phiền não khác. Để có thể loại bỏ tất cả những loại xúc tình phiền não này, chúng ta cần có tâm mạnh khoẻ. Nếu tâm mạnh khoẻ thì các xúc tình không thể đem lại bất kỳ sự đau đớn nào cho ta. Cuộc sống sẽ trở nên tuyệt vờihoàn hảo hơn với một tinh thần mạnh khỏe.

Trí tuệ sẽ giúp chúng ta khai mở tình yêu thương, nếu khôngtrí tuệ thì tình yêu thương sẽ mãi khép kín, tâm chúng ta sẽ mãi chật hẹp và đầy thủ chấp. Trong kinh điển Phật giáo có dạy rằng: loài người hay các loài hữu tình nói chung, như các loại động vật trên thế giới này đều có tình thương. Tình thương có mặt ở khắp, thậm chí những người xấu xa nhất trên thế giới này, hay những loài động vật xấu xa nhất đều sẵn có tình thương. Nhưng chỉ vì tình yêu thương đó chưa hợp nhất được với trí tuệ, nên tình thương đó như đang ngủ say, năng lượng của tình thương đang bị sử dụng sai đường, nên tình yêu thương chuyển thành xấu, và là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều khổ đau. Bởi vì sử dụng sai năng lượng hay sai động cơ, nên dẫn tới rất nhiều vấn đề rắc rối trên thế giới.

blankCâu chân ngôn “Om Ma Ni Pad Me Hung” có công dụng kết hợp tình thương yêu tự nhiênchúng ta sẵn có với trí tuệ hiểu biết, vì thế đây là câu chân ngôn có tầm quan trọng đặc biệt và người ta thường trì tụng chân ngôn này như bài nhật tụng, cùng với sự nhất tâm hướng tới Bồ Tát Quan Thế Âm. Thông thường, không những chúng ta chỉ sử dụng sai tình thương yêu mà còn có xu hướng sử dụng nhầm nguồn năng lượng quý giá của con người, vì thế năng lượng cũng cần kết hợp với sự hiểu biết. Điều này rất quan trọng, vì loài người đều sống dựa vào tình yêu thương, cho nên tình thươngvô cùng cần thiết.

Chúng ta có thể trưởng dưỡng được tình yêu thương thông qua sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm! Đây là một điều rất phổ thông, cần được thực tập không chỉ trong Kim Cương Thừa mà cả trong Hiển giáo. Cho nên Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị Bồ tát được rất nhiều người biết đến, không những trong đạo Phật mà cả những người không phải Phật giáo. Họ đều tập trung theo pháp của Bồ Tát Quan Thế Âm, tôi đã thấy rất nhiều ở Trung Quốc và các nước khác ở Châu Á, thậm chí những người không phải Phật tử, họ đều tin tưởng Bồ Tát Quan Thế Âm. Bởi họ biết tầm quan trọng của sự chuyển hoá tình yêu thương, nếu chúng ta không có sự chuyển hoá này, thì những sản phẩm của thân tâm chúng ta làm ra sẽ không lợi ích cho mình và người.

Thật ra từ vô thủy tới nay chúng ta đã có sẵn tình yêu thương, vì thế sự chuyển hoá thành trí tuệvô cùng quan trọng. Chúng ta tiếp tục thời pháp bằng cách sang tiếp phần giảng về cách thực hành Pháp triệu thỉnh để nhận sự gia trì từ Bồ Tát Quan Thế Âm.

Như tôi đã đề cập sáng nay, chúng ta là những Phật tử của Nguyên thủy Phật giáo, Đại Thừa, hay Kim Cương Thừa. Cho dù chúng ta không có lý do gì để cầu nguyện đến sự gia trì, nhưng chúng ta cũng đều cần đón nhận sự gia trì. Đức Phật Thích Ca từng dạy rằng mỗi chúng ta cần có trách nhiệm với bản thân mình. Bởi vậy, việc cầu nguyện sự gia trì vẫn có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân chúng ta. Trong nghi quỹ này đề cập đến việc cầu nguyện sự gia trì, để phát triển xa hơn trong kiếp sống tương lai, trở thành một người tốt, một hành giả tốt của Phật giáo. Nếu không có sự gia trì, thì chúng ta không có sự nâng đỡ, khi có sự gia trì thì sự nâng đỡ hộ vệ luôn ở bên ta. Chúng ta cần sự nâng đỡ gia trì, để cuộc sống của chúng taý nghĩa, thành côngnhư ý, vì vậy sự gia trì rất cần thiết đối với đời sống hiện tại của chúng ta. Mọi thứ đều cần kết hợp với sự gia trì. Mọi sự thành đạt đều kết hợp với sự gia trì, có thể là sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc Văn Thù Sư Lợi, có thể sự gia trì của đức Liên Hoa Sinh hoặc sự gia trì của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bất kỳ sự gia trì của vị nào cũng đều là sự gia trì của đức Phật, của Như lai tạng, hay là sự gia trì của Bản tính tâm tự nhiên, đó là sự gia trì quan trọng nhất mà chúng ta tìm cầu. Không phải chúng ta mong cầu một sự thần bí, huyền hoặc nào hiện ra gia trì năng lực cho ta, mà chúng ta mong cầu một sự chuyển hoá chính ngay đời sống thường nhật của mình, đời sống của chúng ta mỗi ngày cần phải được cải thiện, như vậy được coi là sự gia trì.

Sự gia trì thường đến trong nhiều hoàn cảnh hình tướng khác nhau, đặc biệt trong Kim Cương Thừa chúng ta tin sự gia trì trong nhiều phương thức khác nhau, như mưa là sự gia trì, cầu vồng cũng là sự gia trì..., bất kỳ một hiện tượng gì cũng có thể là sự gia trì, nhưng rất tiếc chúng ta không hiểu, nên không đón nhận được điều đó. Mỗi chúng ta không nên sống ích kỷ. Ích kỷ có nghĩa là bảo thủbảo thủ tức là khép kín chỉ biết cho riêng mình.

Sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm có thể được thực hiện theo nhiều cách thức khác nhau. Trong Kim Cương Thừa chúng tatruyền thống của việc ban cho nước cam lộ mà bạn đã nhận, đó là một loại nước gia trì và sợi dây cát tường đeo cổ, dùng để hộ vệ cũng được coi là sự gia trì bảo vệ bạn, hay tất cả những lễ phẩm trong buổi lễKim Cương Thừa gọi theo một thuật ngữ đặc biệt là Ganachakra. Tất cả những lễ phẩm được dâng lên đây và sau đó được chia lại cho các bạn không phải là một bữa tiệc, mà đó là phẩm vật gia trì. Như tôi đã nói ở trước, sự gia trì là mưa, cầu vồng, gió, hay là một bóng cây che mát..., rất nhiều loại gia trì đến, nhưng do vô minh chúng ta không nhận ra được và bị lỡ cơ hội thọ nhận. Thực vậy, theo Kim Cương Thừa cuộc sống trên thế gian này tràn ngập sự gia trì nhưng chỉ vì chỗ hiểu nông cạn gây ra chướng ngạichúng ta không đón nhận được. Tuy thế, sự gia trì vẫn luôn sẵn ở bên ta, chỉ cần trì tụng câu chân ngôn “Om Ma Ni Pad Me Hung” rất nhiều lần, để hoa sen trí tuệ của chúng ta được trưởng dưỡng khai mở, thì chúng ta sẽ đón nhận và hân hưởng được trọn vẹn sự gia trì đó.

Ganachakra là một thuật ngữ mới lạ đối với các bạn, ý nghĩa của Ganachakra hay ý nghĩa của thuật ngữchúng tôi thường nói là “Sống để Yêu thương” không khác biệt nhau. “Chakra” là tình yêu thương tượng trưng cho các hoạt động, hoạt động của tình yêu thương còn “Gana”tượng trưng cho cuộc sống hay sự hợp nhất, sự hợp nhất chính là cuộc sống của chúng ta. Ví dụ nếu bạn muốn vỗ tay thì cần phải sử dụng hai tay, không thể dùng một tay. Như thế sự hợp nhất vẫn luôn ở đó để giúp mọi chuyện xảy ra thành tựu như ý. Nếu bạn muốn có lửa, thì cần phải có hai, ba duyên trở lên, nếu chỉ có một duyên không thể tạo thành lửa. Tất cả mọi hiện tượng trên thế giới, đều cần ít nhất hai

duyên trở lên kết hợp với nhau mới tạo thành một vật, như vậy đó là sự kết hợp của nhân duyên, hợp nhất của cuộc sống hay là Gana.

Thế nên Ganachakra nghĩa là sống để yêu thương, đó là cách nói trong ngôn ngữ thông thường, còn trong Đại Thừa gọi là Bồ đề tâm (hay Bodhicitta). Bodhi nghĩa là giác ngộ, Citta có nghĩa là trái tim giác ngộ. Còn trong Kim Cương Thừa là Ganachakra. Chakra là bánh xe, Gana là sự hợp nhất, nghĩa là bánh xe của sự hợp nhất, hay sống để yêu thương, hoặc yêu thương để sống, đó là Ganachakra. Các bạn cũng nên hiểu rõ những nghĩa này. Mọi người thường nhìn vào buổi lễ và cho đó là bữa tiệc, nhưng nó còn có nghĩa là một bữa tiệc thiện hạnh sống để yêu thương, hay bữa tiệc từ sự phát triển trọn vẹn Bồ đề tâm.

Như vậy là theo quan điểm thực hành của Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Đại Thừa hay Kim Cương Thừa thì nguyên lý căn bản của cuộc sống đều là phải sống với những thiện hạnh yêu thương để hàn gắn và chữa lành thế giới này. Điều đó có nghĩa bạn phải biết yêu thươngquan tâm săn sóc đến mọi người trên một tinh thần không vị kỷ để có thể chuyển hoá chính mình và thế giới. Cho nên trong Kim Cương Thừa có rất nhiều phương pháp để thực hành hạnh yêu thươngpháp cúng dường Ganachakra là một trong những phương pháp thiện xảo quan trọng đấy. Ví dụ trong pháp cúng dường này, tất cả lễ phẩm được chia như hoa quả, bánh kẹo... hay thức ăn đều tượng trưng cho hoạt động yêu thương, còn những thứ có thể uống được như sữa, nước trái cây, nước ngọt thì tượng trưng cho trí tuệ, sự hiểu biết hay giác ngộ. Hai loại thực phẩm và nước này tượng trưng cho hai phương pháp lớn, là phương tiện thiện xảo của tình yêu thương. Khi hiểu ý nghĩa này ta mới rõ pháp cúng dường Ganachakra nêu biểu phương pháp thực hành của Kim Cương Thừa, rất đặc biệt và đặc trưng cho Kim Cương Thừa, trong các Thừa khác không thấy có pháp này.

Cho nên chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa chân thực của việc nhận được các phần lộc này. Bạn cần phải uống nước ăn bánh…, và hãy tự nhủ với mình rằng: “Ta cần nắm giữ được các phương tiện thiện xảo giữa Từ bi và Trí tuệ”. Hãy khai mở, duy trì, trưởng dưỡng hai phẩm hạnh này trong cuộc đời và bạn sẽ tự nhiên thọ nhận sự gia trì đầy ân phước của Chư Phật.

Đến đây chúng tôi đã kết thúc những hướng dẫn vắn tắt về nguyên lý của Kim Cương Thừa về Bồ Đề Tâm, hay sự kết hợp giữa Từ biTrí tuệ. Tôi đã hướng dẫn chung cho các Phật tử về cách làm thế nào để sống hạnh phúc trên thế giới này, mặc dù chỉ qua những lời giải thích rất ngắn gọn, vì chúng ta không có nhiều thời gian, nhưng tất nhiên nếu có nhân duyên quay trở lại trụ xứ này, tôi vẫn sẽ nhắc lại những điều quan trọng trên với các bạn và hy vọng các bạn sẽ dần dần hiểu ra làm thế nào để sống một cách đúng đắn trên thế giới này thông qua các phương pháp thực hành khác nhau của Nguyên Thủy, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa. Cả ba thừa này đều là con đường giải thoát, mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã từ bi chỉ dạy cho chúng ta, cho nên chúng ta có thể chọn phương pháp phù hợp với căn cơ mình để tu tập theo một cách thật sự thoải mái. Tất cả chúng ta đến đây để giúp đỡ lẫn nhau, hy vọng là tôi không làm lãng phí thời gian của các bạn, và sự hiện diện cũng như chia sẻ của tôi sẽ trợ giúp vào những đời sống trong tương lai của các bạn.

Cầu nguyện rằng chúng ta sẽ có nhiều nhân duyên để gặp lại và tiếp tục trợ giúp để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho mình và mọi người ngày càng tốt đẹp hơn. Xin chân thành cảm ơn các bạn!

______________________________________

Bài liên quan:

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÚ, Đức Đạt-lai Lạt-ma thuyết giảng Hồng Như Việt dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19798)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28907)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20635)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19378)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30424)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36365)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33162)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35484)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20927)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21869)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25219)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25748)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31214)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18527)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25094)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23731)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28880)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20819)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31415)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25509)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29674)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22472)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25680)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23212)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25706)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23690)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40562)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23306)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22404)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22047)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23471)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16934)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23261)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24273)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41039)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18948)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20445)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27693)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38064)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34030)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36751)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23961)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29141)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60085)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27563)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68659)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24477)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24442)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22644)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26309)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26490)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20754)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20010)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27510)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46326)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53495)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23564)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21044)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25516)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29199)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant