Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Lục tự chân ngôn - Sự hợp nhất của từ bitrí tuệ

24 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13179)
8. Lục tự chân ngôn - Sự hợp nhất của từ bi và trí tuệ

MANDALA - SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
THEO QUAN KIẾN KIM CƯƠNG THỪA
Giáo Pháp Từ Chuyến Viếng Thăm Việt Nam 2010
của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa XII

LỤC TỰ CHÂN NGÔN
SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị
Giảng pháp và truyền quán đỉnh Quán Âm
tại Chùa Quan Âm, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ngày 28.3.2010

blank

blankLời đầu tiên tôi xin bày tỏ niềm tri ân sâu sắc đến chư tôn đức Tăng Ni, đặc biệtNi Trưởng trụ trìchư Tăng Ni tại trụ xứ chùa Quan Âm Tu Viện cùng với tất cả Phật tử gần xa có duyên câu hội về đạo tràng này. Tôi xin cầu nguyện cuộc viếng thăm này sẽ đem lại một chút ánh sáng của đạo Pháp tới quý Phật tử Việt Nam nói riêng và người Việt Nam nói chung. Theo tôi biết, về phương diện lịch sử, đất nước và con người Việt Nam đã có rất nhiều mối liên hệ với Phật giáo. Chúng ta cần làm những gì có thể để tiếp tục trưởng dưỡng mối liên hệ truyền thống này. Xin cảm niệm sự ủng hộ nhiệt thành của chính phủ Việt Nam, đặc biệt là Thành hội Phật giáo Hà Nội, đã có giấy mời tôi và Tăng đoàn Truyền thừa Drukpa tới Việt Nam để chia sẻ những Giáo Pháp quý giá của Đức Phật, vì lợi ích của hết thảy hữu tình, để đem lại hòa bình và sự phát triển phồn vinh cho đất nước.

Đất nước cần hòa bình, cần phát triển vật chất, cả hai phương diện này đều dựa trên sự hiểu biết tâm linh. Nếu bạn không có sự hiểu biết tâm linh, bạn sẽ gặp khó khăn để phát triển hai khía cạnh chính là tâm linhvật chất trong cùng một lúc. Một lần lữa tôi xin chân thành cảm ơn tất cả quý vị, đã câu hội về đây để nhận quán đỉnh của Bồ Tát Quan Thế Âm, đồng thời tôi cũng xin chân thành cáo lỗi vì để quý vị đã chờ một thời gian khá lâu, trong một ngày thời tiết rất nóng bức.

Hôm nay chúng tôi được thỉnh truyền trao quán đỉnh về Bồ Tát Quan Thế Âm, với câu chân ngôn Lục tự Đại minh chân ngôn: “Om mani padme hung”. Trước hết tôi xin giảng sơ qua về ý nghĩa của câu chân ngôn này.

OM là tượng trưng cho năng lượng của vũ trụ, là sự kết hợp hài hòa của năng lượng từ bitrí tuệ như nhau. MANI là ngọc như ý tượng trưng cho lòng từ bi không bị phá hủy. PADME là hoa sen tượng trưng cho sự thanh tịnh của bản chất tự nhiên, hay sự thanh tịnh nguyên thủy. HUNG tượng trưng cho sự viên mãn thành tựu. Như vậy “Om Ma Ni Pad Me Hung” là tượng trưng cho năng lượng vũ trụ, cùng với năng lượng không thể phá hủy bản chất thanh tịnh nguyên sơ, những phẩm chất của chính nó sự chứng ngộ viên mãn. Bất kỳ ai thực hành trì niệm câu chú này, sẽ thành tựu sự hợp nhất huyền bí của năng lượng và sự thanh tịnh.

Đạo Phật thường nói về sự kết hợp trí tuệtừ bi, hay trí tuệtình thương yêu, ở đây cũng nói sự kết hợp giữa Ma Ni và Pad Me tượng trưng cho sự kết hợp giữa Trí tuệTừ bi. Tình yêu thương được tượng trưng bởi ngọc ma ni hay kim cương, tượng trưng cho năng lượng. Padme tượng trưng cho sự hiểu biết hay sự thanh tịnh, hiểu biết rằng vạn vật vốn thanh tịnh từ nguyên sơ gọi là trí tuệ, nếu khôngtrí tuệ này thì gọi là không thanh tịnh và đầy sự phá hủy. Chúng ta đều cần ban trải tình thương tới tất cả mọi người, mọi loài và đặc biệt tới chính bản thân mình. Ví dụ bạn cần phải biết cách thương yêu mình để có thể thương yêu người khác. Nếu bạn không thể yêu thương chính mình thì bạn không yêu thương người khác. Bởi vậy chúng ta cần có trí tuệ để biết cách yêu thương chính mình.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất là vào hiện giờ, những hiểu biết hiện tại của chúng ta đều đa phần là sai lầm, vô minh. Vì thế chúng ta rất cần có trí tuệ, nếu khôngtrí tuệ mà chỉ có yêu thương thì đây gọi là yêu thương theo bản năng của loài người vẫn thường có. Tất cả loài người đều có bản năng là sự yêu thương nhưng chúng ta không biết cách sử dụng nó, hay nói cách khác, chúng ta không có trí tuệ. Bởi thế tình yêu thương đã hoạt động không đúng, nhiều khi tình thương yêu còn bị lạm dụng. Chính vì thế mà việc trưởng dưỡng trí tuệ nơi mỗi người là điều vô cùng cần thiết.

Câu chân ngôn “Om MaNi PadMe Hung” có rất nhiều ý nghĩa thể hiện sự kết hợp giữa trí tuệ và tiềm năng yêu thương. Tình yêu thương phải được trưởng dưỡng bằng trí tuệ. Trí tuệ cần phát triển thông qua thiền quán.

Thiền quán có hai khía cạnh: Một là tư duy hiểu biết theo đúng chân lý, đúng sự thật. Và một cách thiền quán khác là sự cầu nguyện, sự gia trì thông qua việc mở rộng trái tim mình. Hai khía cạnh Thiền quán này rất cần thiết để khai mở trí tuệ. Nếu hoa sen tượng trưng cho trí tuệ thì tư duy thiền quán giống như mặt trời giúp hoa sen được khai nở. Vậy chúng ta cần thiền quán tư duy giống như mặt trời, loại thiền quán về chân lý và sự cầu nguyện để đón nhận sự gia trì tâm linh. Như thế chân ngôn Lục tự giống như một lời cầu nguyện, một kỹ thuật thiền quán, cả hai kết hợp trong câu chân ngôn này.

Như tôi đã nhắc đến ở trên, tình thương yêu cũng cần được khai mở và trưởng dưỡng. Do thiếu trí tuệ để khai mở tình thương nên hiện tại chúng ta có một tâm lý yếu ớt, hạn hẹp và bảo thủ. Song có một thực tếm là chúng ta đều muốn mình khoẻ khoắn, nếu không đủ khoẻ chúng ta sẽ không thể sống và tồn tại trên thế giới này, hoặc nếu có sống thì cũng rất ốm yếu khốn khổ, sống với giận giữ, tật đố, vô minh cùng với tất cả những xúc tình phiền não khác. Để có thể loại bỏ tất cả những loại xúc tình phiền não này, chúng ta cần có tâm mạnh khoẻ. Nếu tâm mạnh khoẻ thì các xúc tình không thể đem lại bất kỳ sự đau đớn nào cho ta. Cuộc sống sẽ trở nên tuyệt vờihoàn hảo hơn với một tinh thần mạnh khỏe.

Trí tuệ sẽ giúp chúng ta khai mở tình yêu thương, nếu khôngtrí tuệ thì tình yêu thương sẽ mãi khép kín, tâm chúng ta sẽ mãi chật hẹp và đầy thủ chấp. Trong kinh điển Phật giáo có dạy rằng: loài người hay các loài hữu tình nói chung, như các loại động vật trên thế giới này đều có tình thương. Tình thương có mặt ở khắp, thậm chí những người xấu xa nhất trên thế giới này, hay những loài động vật xấu xa nhất đều sẵn có tình thương. Nhưng chỉ vì tình yêu thương đó chưa hợp nhất được với trí tuệ, nên tình thương đó như đang ngủ say, năng lượng của tình thương đang bị sử dụng sai đường, nên tình yêu thương chuyển thành xấu, và là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều khổ đau. Bởi vì sử dụng sai năng lượng hay sai động cơ, nên dẫn tới rất nhiều vấn đề rắc rối trên thế giới.

blankCâu chân ngôn “Om Ma Ni Pad Me Hung” có công dụng kết hợp tình thương yêu tự nhiênchúng ta sẵn có với trí tuệ hiểu biết, vì thế đây là câu chân ngôn có tầm quan trọng đặc biệt và người ta thường trì tụng chân ngôn này như bài nhật tụng, cùng với sự nhất tâm hướng tới Bồ Tát Quan Thế Âm. Thông thường, không những chúng ta chỉ sử dụng sai tình thương yêu mà còn có xu hướng sử dụng nhầm nguồn năng lượng quý giá của con người, vì thế năng lượng cũng cần kết hợp với sự hiểu biết. Điều này rất quan trọng, vì loài người đều sống dựa vào tình yêu thương, cho nên tình thươngvô cùng cần thiết.

Chúng ta có thể trưởng dưỡng được tình yêu thương thông qua sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm! Đây là một điều rất phổ thông, cần được thực tập không chỉ trong Kim Cương Thừa mà cả trong Hiển giáo. Cho nên Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị Bồ tát được rất nhiều người biết đến, không những trong đạo Phật mà cả những người không phải Phật giáo. Họ đều tập trung theo pháp của Bồ Tát Quan Thế Âm, tôi đã thấy rất nhiều ở Trung Quốc và các nước khác ở Châu Á, thậm chí những người không phải Phật tử, họ đều tin tưởng Bồ Tát Quan Thế Âm. Bởi họ biết tầm quan trọng của sự chuyển hoá tình yêu thương, nếu chúng ta không có sự chuyển hoá này, thì những sản phẩm của thân tâm chúng ta làm ra sẽ không lợi ích cho mình và người.

Thật ra từ vô thủy tới nay chúng ta đã có sẵn tình yêu thương, vì thế sự chuyển hoá thành trí tuệvô cùng quan trọng. Chúng ta tiếp tục thời pháp bằng cách sang tiếp phần giảng về cách thực hành Pháp triệu thỉnh để nhận sự gia trì từ Bồ Tát Quan Thế Âm.

Như tôi đã đề cập sáng nay, chúng ta là những Phật tử của Nguyên thủy Phật giáo, Đại Thừa, hay Kim Cương Thừa. Cho dù chúng ta không có lý do gì để cầu nguyện đến sự gia trì, nhưng chúng ta cũng đều cần đón nhận sự gia trì. Đức Phật Thích Ca từng dạy rằng mỗi chúng ta cần có trách nhiệm với bản thân mình. Bởi vậy, việc cầu nguyện sự gia trì vẫn có ý nghĩa đối với mỗi cá nhân chúng ta. Trong nghi quỹ này đề cập đến việc cầu nguyện sự gia trì, để phát triển xa hơn trong kiếp sống tương lai, trở thành một người tốt, một hành giả tốt của Phật giáo. Nếu không có sự gia trì, thì chúng ta không có sự nâng đỡ, khi có sự gia trì thì sự nâng đỡ hộ vệ luôn ở bên ta. Chúng ta cần sự nâng đỡ gia trì, để cuộc sống của chúng taý nghĩa, thành côngnhư ý, vì vậy sự gia trì rất cần thiết đối với đời sống hiện tại của chúng ta. Mọi thứ đều cần kết hợp với sự gia trì. Mọi sự thành đạt đều kết hợp với sự gia trì, có thể là sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc Văn Thù Sư Lợi, có thể sự gia trì của đức Liên Hoa Sinh hoặc sự gia trì của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Bất kỳ sự gia trì của vị nào cũng đều là sự gia trì của đức Phật, của Như lai tạng, hay là sự gia trì của Bản tính tâm tự nhiên, đó là sự gia trì quan trọng nhất mà chúng ta tìm cầu. Không phải chúng ta mong cầu một sự thần bí, huyền hoặc nào hiện ra gia trì năng lực cho ta, mà chúng ta mong cầu một sự chuyển hoá chính ngay đời sống thường nhật của mình, đời sống của chúng ta mỗi ngày cần phải được cải thiện, như vậy được coi là sự gia trì.

Sự gia trì thường đến trong nhiều hoàn cảnh hình tướng khác nhau, đặc biệt trong Kim Cương Thừa chúng ta tin sự gia trì trong nhiều phương thức khác nhau, như mưa là sự gia trì, cầu vồng cũng là sự gia trì..., bất kỳ một hiện tượng gì cũng có thể là sự gia trì, nhưng rất tiếc chúng ta không hiểu, nên không đón nhận được điều đó. Mỗi chúng ta không nên sống ích kỷ. Ích kỷ có nghĩa là bảo thủbảo thủ tức là khép kín chỉ biết cho riêng mình.

Sự gia trì của Bồ Tát Quan Thế Âm có thể được thực hiện theo nhiều cách thức khác nhau. Trong Kim Cương Thừa chúng tatruyền thống của việc ban cho nước cam lộ mà bạn đã nhận, đó là một loại nước gia trì và sợi dây cát tường đeo cổ, dùng để hộ vệ cũng được coi là sự gia trì bảo vệ bạn, hay tất cả những lễ phẩm trong buổi lễKim Cương Thừa gọi theo một thuật ngữ đặc biệt là Ganachakra. Tất cả những lễ phẩm được dâng lên đây và sau đó được chia lại cho các bạn không phải là một bữa tiệc, mà đó là phẩm vật gia trì. Như tôi đã nói ở trước, sự gia trì là mưa, cầu vồng, gió, hay là một bóng cây che mát..., rất nhiều loại gia trì đến, nhưng do vô minh chúng ta không nhận ra được và bị lỡ cơ hội thọ nhận. Thực vậy, theo Kim Cương Thừa cuộc sống trên thế gian này tràn ngập sự gia trì nhưng chỉ vì chỗ hiểu nông cạn gây ra chướng ngạichúng ta không đón nhận được. Tuy thế, sự gia trì vẫn luôn sẵn ở bên ta, chỉ cần trì tụng câu chân ngôn “Om Ma Ni Pad Me Hung” rất nhiều lần, để hoa sen trí tuệ của chúng ta được trưởng dưỡng khai mở, thì chúng ta sẽ đón nhận và hân hưởng được trọn vẹn sự gia trì đó.

Ganachakra là một thuật ngữ mới lạ đối với các bạn, ý nghĩa của Ganachakra hay ý nghĩa của thuật ngữchúng tôi thường nói là “Sống để Yêu thương” không khác biệt nhau. “Chakra” là tình yêu thương tượng trưng cho các hoạt động, hoạt động của tình yêu thương còn “Gana”tượng trưng cho cuộc sống hay sự hợp nhất, sự hợp nhất chính là cuộc sống của chúng ta. Ví dụ nếu bạn muốn vỗ tay thì cần phải sử dụng hai tay, không thể dùng một tay. Như thế sự hợp nhất vẫn luôn ở đó để giúp mọi chuyện xảy ra thành tựu như ý. Nếu bạn muốn có lửa, thì cần phải có hai, ba duyên trở lên, nếu chỉ có một duyên không thể tạo thành lửa. Tất cả mọi hiện tượng trên thế giới, đều cần ít nhất hai

duyên trở lên kết hợp với nhau mới tạo thành một vật, như vậy đó là sự kết hợp của nhân duyên, hợp nhất của cuộc sống hay là Gana.

Thế nên Ganachakra nghĩa là sống để yêu thương, đó là cách nói trong ngôn ngữ thông thường, còn trong Đại Thừa gọi là Bồ đề tâm (hay Bodhicitta). Bodhi nghĩa là giác ngộ, Citta có nghĩa là trái tim giác ngộ. Còn trong Kim Cương Thừa là Ganachakra. Chakra là bánh xe, Gana là sự hợp nhất, nghĩa là bánh xe của sự hợp nhất, hay sống để yêu thương, hoặc yêu thương để sống, đó là Ganachakra. Các bạn cũng nên hiểu rõ những nghĩa này. Mọi người thường nhìn vào buổi lễ và cho đó là bữa tiệc, nhưng nó còn có nghĩa là một bữa tiệc thiện hạnh sống để yêu thương, hay bữa tiệc từ sự phát triển trọn vẹn Bồ đề tâm.

Như vậy là theo quan điểm thực hành của Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Đại Thừa hay Kim Cương Thừa thì nguyên lý căn bản của cuộc sống đều là phải sống với những thiện hạnh yêu thương để hàn gắn và chữa lành thế giới này. Điều đó có nghĩa bạn phải biết yêu thươngquan tâm săn sóc đến mọi người trên một tinh thần không vị kỷ để có thể chuyển hoá chính mình và thế giới. Cho nên trong Kim Cương Thừa có rất nhiều phương pháp để thực hành hạnh yêu thươngpháp cúng dường Ganachakra là một trong những phương pháp thiện xảo quan trọng đấy. Ví dụ trong pháp cúng dường này, tất cả lễ phẩm được chia như hoa quả, bánh kẹo... hay thức ăn đều tượng trưng cho hoạt động yêu thương, còn những thứ có thể uống được như sữa, nước trái cây, nước ngọt thì tượng trưng cho trí tuệ, sự hiểu biết hay giác ngộ. Hai loại thực phẩm và nước này tượng trưng cho hai phương pháp lớn, là phương tiện thiện xảo của tình yêu thương. Khi hiểu ý nghĩa này ta mới rõ pháp cúng dường Ganachakra nêu biểu phương pháp thực hành của Kim Cương Thừa, rất đặc biệt và đặc trưng cho Kim Cương Thừa, trong các Thừa khác không thấy có pháp này.

Cho nên chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa chân thực của việc nhận được các phần lộc này. Bạn cần phải uống nước ăn bánh…, và hãy tự nhủ với mình rằng: “Ta cần nắm giữ được các phương tiện thiện xảo giữa Từ bi và Trí tuệ”. Hãy khai mở, duy trì, trưởng dưỡng hai phẩm hạnh này trong cuộc đời và bạn sẽ tự nhiên thọ nhận sự gia trì đầy ân phước của Chư Phật.

Đến đây chúng tôi đã kết thúc những hướng dẫn vắn tắt về nguyên lý của Kim Cương Thừa về Bồ Đề Tâm, hay sự kết hợp giữa Từ biTrí tuệ. Tôi đã hướng dẫn chung cho các Phật tử về cách làm thế nào để sống hạnh phúc trên thế giới này, mặc dù chỉ qua những lời giải thích rất ngắn gọn, vì chúng ta không có nhiều thời gian, nhưng tất nhiên nếu có nhân duyên quay trở lại trụ xứ này, tôi vẫn sẽ nhắc lại những điều quan trọng trên với các bạn và hy vọng các bạn sẽ dần dần hiểu ra làm thế nào để sống một cách đúng đắn trên thế giới này thông qua các phương pháp thực hành khác nhau của Nguyên Thủy, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa. Cả ba thừa này đều là con đường giải thoát, mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã từ bi chỉ dạy cho chúng ta, cho nên chúng ta có thể chọn phương pháp phù hợp với căn cơ mình để tu tập theo một cách thật sự thoải mái. Tất cả chúng ta đến đây để giúp đỡ lẫn nhau, hy vọng là tôi không làm lãng phí thời gian của các bạn, và sự hiện diện cũng như chia sẻ của tôi sẽ trợ giúp vào những đời sống trong tương lai của các bạn.

Cầu nguyện rằng chúng ta sẽ có nhiều nhân duyên để gặp lại và tiếp tục trợ giúp để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho mình và mọi người ngày càng tốt đẹp hơn. Xin chân thành cảm ơn các bạn!

______________________________________

Bài liên quan:

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÚ, Đức Đạt-lai Lạt-ma thuyết giảng Hồng Như Việt dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12487)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14090)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10838)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11166)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11974)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13608)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33627)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11313)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12887)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13027)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17858)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11811)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18949)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12516)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11301)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13121)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15730)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11791)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11676)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12733)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12612)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13926)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12905)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13264)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11705)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11698)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12305)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12370)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19806)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11935)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11972)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16866)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12656)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15049)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16087)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12857)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12204)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11900)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11913)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16487)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13216)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12464)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11791)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11237)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11069)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10947)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10016)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11724)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant