Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

04. Phẩm Tín Giải

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10064)
04. Phẩm Tín Giải

Phẩm Tín Giải Thứ Tư

 Tín là tin.

 Giải là hiểu rõ một cách trọn vẹn hay cởi mở những điều mình đã hiểu.

 Vậy Phẩm Tín Giải được thiết lập với mục đích để nâu rõ việc tin và hiểu về "Pháp môn Nhất Thừa" của bậc trung thượng căn như Ngài Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp, Đại ca Chiên Diên, Đại Mục Kiền Liên. Sau khi các ngài nghe Đức Thế Tôn tuyên bày thí dụ về nhà lửa, đến đây các Ngài đã tỏ ngộ và trình bày chỗ tỏ ngộ của mình.

 "Lúc bấy giờ các Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp, Đại ca Chiên Diên, Đại Mục Kiền Liên, từ nơi Phật nghe pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn đã trao ghi cho Ngài Xá Lợi Phất sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên sinh lòng hi hữu nhảy nhót vui mừng".

 Tại sao Ngài Tu Bồ ĐềĐại ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp... lại được xưng là Huệ Mạng? Bởi vì các Ngài đã được một phần "Tri kiến Như Lai", giờ đây các Ngài đã thấu rõ Đức Thế Tônthương xót chúng sinh mà dùng phương tiện lập ra Tam thừa giáo pháp, mục đích để khai mỡ lý đạo Nhất thừa.

 Giờ đây các Ngài cũng đã hiểu rằng: "Nhị thừa tức là Nhất thừa" vì từ trước đến nayphân biệt nên các Ngài chưa hiểu điều này. Nay Đức Thế Tôn "khai quyền hiển thật" dự ghi cho Ngài Xá Lợi Phất thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm cho các Ngài sáng tỏ nên cho là đặng điều chưa từng có.

 Và "liền từ chổ ngồi đứng dậy, sửa y phục, trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật".

 Bởi vì từ trước đến nay các Ngài đắm chấp nơi quả vị tu chứng của mình. Giờ đây mới hiểu rằng quả vị kia chỉ là phương tiện "liền từ chổ ngồi đứng dậy". Đó là một ý chỉ thâm diệu về sự vượt thoát, tượng trưng cho vấn đề không còn vướng chấp nơi quả vị của mình. Và cũng giờ này các Ngài đã sửa soạn đem giáo pháp Đại thừa để trang nghiêm cho nhân hạnh Phật thừa của mình, nên mới có sự tướng sửa soạn y phục.

 Hơn nữa chính giáo pháp Đại thừa ấy đã hàng phục được ý niệm phân iệt Tiểu và Đại thừa của các Ngài, nên phát khởi sự tướng "trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay" để thể hiện sự tỏ ngộ giáo nghĩa Đại thừaĐức Thế Tôn xót thương khai thị.

 Cảm trọng ân đức ấy, các Ngài đã cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Đức Thế Tôn, nhằm phó chúc cho đời sau phát khởi nhân hạnh Phật thừa.

 Sự quy ngưởng ấy làm trang nghiêm đạo tràng và nhân đó các Ngài bạch cùng Đức Thế Tôn: "Chúng con là hạng người đứng đầu trong hàng Tăng chúng, tuổi đã già nua, tự cho đã chứng Niết bàn, không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn tiến cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

 Đó là những lời tác bạch chân thiết. Vì đứng trước đại chúng các Ngài đã dám mạnh dạn đem chỗ suy nghĩ của mình như: "Thứ bậc cao nhất trong hàng Tăng Chúng, niên kỷ quá cao, chứng được Niết bàn, cho rằng như thế là tột cùng mà chẳng tiến cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

 Các Ngài nêu thêm: "Từ lâu chúng con theo Đức Thế Tôn nghe pháp, lúc đó chúng con đang ngồi nơi toà thân thể mệt mỏi, chỉ nhớ ba pháp : không vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh của Bồ Tát lòng chúng con không ưa thích". Đó là sự kiện của các Ngài hay của chúng ta hôm nay:

Thứ bậc

Tuổi tác

Hạ lạp

 Thân thể mệt mỏi, lý Đại thừa chẳng thông, hạnh quả của Nhị thừa chẳng đạt. Dong ruổi theo ngày tháng, ngồi đó để nghĩ gì?

 Các Ngài đã thị hiển nhắc cho chúng ta thấy có hay có giỏi lắm thì cũng chỉ nghĩ đến ba pháp: không, vô tướng, vô tác.

 Nghĩa là nghỉ rằng mình đã đạt đến chổ vô vi, không còn bị phiền não trói buộc, nên gọi là không.

- Quán được các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, nên gọi là vô tướng.

- Mọi việc xem ra chẳng có gì đáng làm, không còn gì để ưa thích, nên gọi là vô tác.

 Chính vì ý nghĩ đó mà muốn thõng tay vào nơi thâm sơn cùng cốc để yên nhàn.

 Nhưng giờ đây chúng ta đã thật sự quán triệt được ba pháp: không, vô tướng, vô tác chưa?

 Hay còn đang dẩy đầy phiền não, đang bị cảnh duyên trói buộc và bị ngũ dục cuốn lôi?

Thâm sơn cùng cốc khó vào

o Chợ đời khó ở

o Thế mà lắm kẻ đã tự ngôn chứng Thành.

 Làm sao nói đến việc "đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sinh của hàng bồ tát".

 Chính các Ngài còn phải e dè ngần ngại. Tại sao các Ngài không ưa thích việc làm của Bồ Tát?

 Bởi vì nếu dùng trí tuệ thần thông không thể nghĩ bàn để độ thoát chúng sinh, trải qua vô lượng, vô số a tăng tỳ kiếp, mà tánh mình vẫn thanh tịnh. Đó là việc làm của bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, của hàng Bồ Tát Đại thừa.

 Vì sao? Vì một niệm khởi là một sự buộc ràng, khó mà tránh được vọng niệm đảo điên luân hồi sinh tử.

 Thế mà hôm nay "ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh văn sẽ đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lòng rất vui mừng đặng pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay đặng pháp hi hữu, tự rất vui mừng, nay đặng lợi lành lớn, vô lượng trân bảo chẳng tìm cầu mà đặng".

 Cũng bởi từ lâu đắm chấp nơi tiểu pháp có tu, có chứng, cứ tưởng rằng mình đã đạt đến quả vị Niết Bàn, như thế là rốt ráo. Các Ngài không ngờ rằng, chính sự phân biệt suy lường về thứ bậc tu chứng, niên kỷ và trụ hập nơi quả vị mình đạt được, đó là bức tường dày đặc, làm nghẽn lối vào "Giáo môn Nhất thừa".

Phá bỏ cái vỏ cứng trụ chấp ấy, đạt đến ngã không, pháp không, chính lúc ấy là lúc rỗng rang bước vào lý đạo Nhất thừa.

Như vậy các Ngài đã khéo trình bày trước đại chúng, vừa để nói lên sự thông đạt của mình, vừa để phó chúc cho chúng sinh đời sau, y theo đó mà tiến vào Phật đạo.

Đến đây sợ rằng ngôn ngữ chưa chở nổi sự trực ngộ thâm sâu nên các Ngài xin Đức Thế Tôn cho trình bày trước đại chúng một thí dụ để làm sáng tỏ việc chứng ngộ hi hữu vừa nêu.

"Thế Tôn, hôm nay chúng con xin nói thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó. Thí dụ có người tuổi thơ bé bỏ cha trốn đi. Ở lâu nơi nước khác hoặc 10 năm, 20 năm, đến 50 năm, người đó tuổi đã lớn, lại thêm nghèo cùng khốn khổ dong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn quốc".

Như thế các Ngài muốn trình bày rằng: chúng con đã từ lâu trôi lăn trong ngũ thú (trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).

Sống trong cảnh trần lao nhơ nhiễm chẳng có chút phước báu nào cả. Chợt Đại thừa tâm phát khởi, lúc đó chúng con mi quay về "thế tính viên minh" nơi quê cũ của mình.

Các Ngài trình bày tiếp:

"Người cha từ trước đến nay tìm con không đặng bèn ở lại một thành trong nước đó, nhà ông giàu lớn có báu vô lượng, kho lẩm thảy đều đầy dẩy, tôi tớ, thần tá lại dân rất đông, cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều".

Với ý nghĩa Đức Thế Tôn đã thuỳ từ lân mẫn thị hiện đồng cư với chúng sinh. Ngài có đủ sức trí tuệ thần thông không thể nghĩ bàn. Có công hạnh tự lợilợi tha khắp đầy ba cõi, giáo hoá vô lượng vô số chúng sinh đầy đủ Tam thừa Thánh chúng.

Các Ngài xưa kia nhờ có vun trồng cội phúc, nay mới có duyên lành gặp Đức Thế Tôn thị hiện, giống như gã cùng tử kia "dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng lần hồi đến nơi thành của người cha ở".

Các Ngài đã thưa trình tiếp với nội dung: "Đức Thế Tôn biết rõ chúng sinh đắm chìm trong ngũ dục, triền miên trong sinh tử luân hồi. Nhưng chúng vẫn có hạt giống vô lậu xuất thế, chúng vẫn có kho tàng vô tận quý báu như Ngài đã có. Với lòng thương xót bao la, với tinh thần bình đẳng tuyệt đối, Ngài chỉ muốn khai thị cho chúng sinh ngộ nhập "Tri kiến Phật" mà đoạn kinh đã ghi:

"Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly 50 năm, mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ lòng rất ăn năn, ông tự nghĩ: già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai chết rồi thời của cải tản mất, không người giao phó, cho nên cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ nếu ta gặp đặng con, uỷ phó của cải cho nó là thản nhiên khoái lạc không còn sầu lo".

Bởi vì hạt giống "vô lậu xuất thế" nếu không phát khởi nẩy mầm thì cái kho tàng quý báu, muôn đưc muôn hạnh viên dung, sẽ xem hư tản mất và như thế thì nghiệp lực sẽ dẫn dắt, lún sâu trong vũng lầy sinh tử biết bao giò thoát được. Nghĩ đến cảnh vô thường sinh, lão, bệnh, tử, các Ngài giật mình tỉnh giác, tìm cầu giải thoát. Nhưng vì vô minh che khuấtphiền não trói buộc đã lâu, do vậy ở gần Đức Thế Tôn tu tập đã nhiều mà vẫn chưa nhận ra "Pháp thân thường trú", chưa nhận ra "giáo môn Nhất thừa" giống như "gả cùng tử người làm thuê làm mướn lần hồi đến nhà người cha, bèn đứng lại bên cửa xa thấy cha".

Thấy cha mà chẳng biết đó là cha mình, cũng vì xa "quê cũ" quá lâu. Điều đó các Ngài muốn nói lên rằng : vì căn trí của chúng con hạ liệt, chỉ muốn y theo tiểu pháp mà hành, chẳng dám ngó nhìn đại pháp.

"Thưa Thế Tôn! Bây giờ gả cùng tử người làm thuê làm mướn lần hồi đến nhà người cha, bèn đứng lại bên cửa sổ, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà la môn, Sát đế lợi, Cư sĩ đều cung kính bao quanh. Các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy cho... có các sự nghiêm sức dường ấy, oai đức rất tôn trọng. Gả cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sinh lòng sợ sệt".

Thật đáng thương cho gả cùng tử, vì thân phận nghèo cùng, nên chẳng dám nghĩ đến chuyện cao sang. Vì gả biết mình là con ông trưởng giả. Chuyện cao sang đâu cần phải mong cầu, mà gả vốn đã sẵn có. Thế mà thấy cha có thế lực lớn lại sinh lòng sợ sệt.

Cũng như thế, các Ngài chỉ trụ chấp nơi tiểu quả, cho đó là rốt ráo ở trong cảnh tịch tịnh vô vi, chẳng mong cầu "Giáo môn Nhất thừa" cho là Thanh văn vô phân, chẳng thấu rõ "Đại thừa giáo pháp" kia vốn sẵn có ở nơi mình.

Giờ đây chúng ta cũng thế, miệng từng nói mình là Phật tử, nhưng có ai dám tự nhận mình sẽ thành Phật, sẽ thừa hưởng tất cả những kho tàng vô giá của Như Lai chăng? hay chỉ muốn đắm chìm vào câu kinh tiếng kệ, dưa muối qua ngày, thế mới gọi là Phật tử? Hay chỉ muốn lăn lộn trong chốn trần lao tìm cầu ăn mặc, tìm cầu danh vọng, sắc đẹp và ngũ nghĩ rồi cho đó là hành đạo Bồ Tát.

Đọc đến đoạn kinh này chúng ta tự soi mình, có lẽ chúng ta so với gả cùng tử kia còn thấp kém hơn muôn triệu lần.

Chúng ta chẳng những không giữ tròn giới hạnh để chứng đạt cảnh giới Niết bàn, như các Ngài Huệ mạng Tu Bồ Đề, Đại Ca Diếp, đang khi còn trụ chấp nơi cảnh giới Nhị thừa. Mà chúng ta hiện giờ đang lừa dối hàng bạch y phá giới hạng trai, ssi mê, tăm tối, chẳng thông đạt "giáo nghĩa Đại thừa" lại dám ngồi trên pháp toà, để đem "đồ nhơ đựng trong bát báu". 

Chuyên làm môi giới cho Thánh thần, học thuộc lòng một số kinh điển, vài trăm câu kệ, vài ngàn từ ngữ trong giáo điển để rồi đem ra mua bán làm lợi dưỡng cho thân mình. 

Suốt ngày những vọng niệm đảo điên liên tục thay nhau, nhân nào quả nấy, làm gì tránh khỏi việc "mang lông đội sừng" để trả nợ áo cơm cho tín thí

Đến đây đoạn kinh đã nêu về sự suy nghĩ của gã cùng tử: "Chẳng bằng ta qua xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức để đặng đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ép sai ta làm, gã nghĩ như thế rồi liền chạy mau đi thẳng".

Nhận biết gã kia chính là con mình, lòng ông trưởng giả vui sướng vô hạn. Ông chỉ muốn làm sao gặp con để trao cho nó kho tàng vô tận, nên lúc đó " ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại, lúc ấy kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: "Tôi không hề xúc phạm nhân sao lại bị bắt". Kẻ sứ giả càng gấp cưỡng bắt về. Khi đó gã cùng tử tự nghĩ: không tội chi mà bị bắt, chắc định phải chết, lại càng sợ sệt ngất ngã xuống đất".

Với cảng tượng vừa trình bày ấy, các Ngài muốn cho chúng hội rõ là các Ngài đã thấu được diệu lý của Đức Thế Tôn vừa thuyết trong Phẩm Phương Tiện. Khi ở nơi đạo tràng, xem kinh và kinh hành trong 21 ngày, Đức Thế Tôn đã quyết định không thuyết Đại thừa ngay. Vì chúng sinh đang chìm trong biển ái, khó mà tin nhận "giáo nghĩa Đại thừa". Nếu không tin mà thuyết, chúng sinh sẽ phá pháp rơi vào ba đường dữ.

Nhận được ý chỉ ấy của Đức Thế Tôn, các Ngài đã tự biết mìnhcăn cơ hạ liệt mà khiếp sợ Đại thừa, không dám trực nhậnchân Phật tử.

Đúng như thế, Đức Thế Tôn đã không dùng giáo nghĩa Đại thừa mà thuyết cho chúng hội ngay từ lúc chuyển pháp luân. Ngài lại từ theo căn cơdìu dắt chúng sinh phát khởi Tam thừa chủng tánh. Ngài đã để cho chúng sinh "tùy ý" chọn các tiểu pháp theo sở thích mình để thoát ly sinh tử

Thấy tiểu pháp quá vi diệu, dễ tu, dễ chứng, nên chúng sinh cho đó là đặng điều chưa từng có.

"Cha biết con mình ý chí hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm khiếp sợ cho con, biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ giả nói vi gã cùng tử : nay thả ngươi đi đâu tuỳ ý. Gã cùng tử vui mừng đặng điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy qua xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc".

Mặc dù là tiểu pháp, phước tuệ chưa được viên mãn, nhưng cũng đủ công năng tiêu huỷ các món phiền nãotam độc tham, sân, si.

Hơn nữa, chính nơi tiểu pháp ấy đã ẩn tàng đại pháp, nên các Ngài đã trình bày:

"Bấy giờ ông trưởng giả thầm kín sai hai người hình sắc tiều tuỵ không có oai đức, hai người nên qua xóm nghèo kia từ từ nói với gả cùng tử nơi đây có chổ làm trả gấp bội, gã cùng tử nếu chịu thời dắt về đây khiển làm. Nếu nó hỏi sai làm gì? Thì nên nói với nó rằng: Thuê ngươi hốt phân, chúng ta hai người củng cùng ngươi chung nhau làm".

Tại sao hai người cùng ngươi chung làm việc? Nghĩa là dùng phương tiện Nhị thừa để dìu dắt chúng hội nhưng bên trong đã ngầm chứa lý đạo Nhất thừa.

Làm việc gì? Đó là việc hốt phân hay tẩy trừ phiền não, tẩy trừ những nhơ nhiễm đang làm mờ tối trí tuệ của chúng sinh.

Giáo pháp Nhị thừa mà các Ngài đã và đang tắm mình trong ấy. Đó là những bậc thanh vững chắc để bước vào "Giáo môn Nhất thừa".

Chính khi dùng phương tiện này Đức Thế Tôn cũng tự hạ mình để đồng cư với chúng sinh, ngõ hầu chiều uốn uốn dần dần cho đến lúc truyền trao giáo pháp "Tối thượng thừa".

"Người cha thấy con thương xótquái lạ, lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tuỵ, phân đất bụi bặm dơ dáy không sạch sẽ, ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách hôi dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dáng đáng nể sợ".

Nhờ dùng phương tiện đó mới gần con, khi đã được gần con, ông ân cần khuyên nên: "Làm ở đây, đừng đi nơi khác".

Cho đến 20 năm sau, gã cùng tử vào ra nhà ông trưởng giả một cách thư thái, biết được tất cả vật dụng trong nhà. Và bây giờ trưởng giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết, mới bảo gã cùng tử rằng: "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân châu, kho đụn tràn đầy, trong đó có nhiều chổ đáng xài dùng, ngươi phải biết hết đó".

Tuy thế, "Chổ gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được".

Đoạn kinh ấy cho chúng ta thấy rằng các Ngài đã nêu từ lâu Đức Thế Tôn cũng đã thuyết Đại thừa giáo môn cho các Ngài. Nhưng các Ngài chẳng hề ham thích, cũng chẳng có ý tham cầu. Bởi vì căn cơ hạ liệt và cũng chưa đến lúc Đức Thế Tôn tuyên bày thẳng cho các Ngài về giáo môn Nhất thừa, mà Đức Thế Tôn đã từng chỉ dạy cho hàng Bồ Tát mà các Ngài đã có phúc duyên nghe được nhưng các Ngài chưa thấu rõ. Hôm nay căn cơ các Ngài đã thuần thục, quả vị Thanh văn đã đạt thành. Đúng là lúc Đức Thế Tôn “khai quyền hiển thật” khai thị cho các Ngài ngộ nhập “Tri kiến Phật” một cách thản nhiên tự tại.

Liễu triệt vấn đề khai thị ấy mà các Ngài đã dung thông ngã, pháp. Đây là vấn đề cơ bản hi hữu để các Ngài bước vào bậc “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” nên cho là đặng điều chưa từng có, mà đoạn kinh đã viện dẫn.

“Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con đã thông thái trọn nên chí lớn. Ông gọi con đến và hội cả thân tộc, quốc vương, quan đại thần, dòng Sát lợi, hàng Cư sĩ.

Khi đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: “Các Ngài nên rõ, người này là con ta, của ta sinh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn 50 năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Nay ta có bao nhiêu của cải đều là con ta có. Khi đó gã cùng tử nghe cha nói thế, liền rất vui mừng đặng điều chưa từng có”.

Điều đó đã chứng minh rằng: “Nhất thừa giáo môn tức là do “Nhị thừa quyền pháp” mà vào vậy".

Để kết thúc ẩn dụ Ngài Ca Diếp đã bạch rằng: “Thưa Thế Tôn! Vị đại trưởng giả đó là Đức Như Lai, còn gã cùng tử chính là chúng con”.

Bởi vì trước đây chúng con chỉ thấy ba món khổ: khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, do vì cảm nhận thân này vô thường rất nhiều đau khổ, lại bị trần cảnh trói buộc, tạo nên một lớp khổ nữa. Đã như thế đến lúc hoại diệt đổi thay luân hồi lưu chuyển, lại cảm nhận khổ hơn. Nhận chân được ba món khổ ấy mà các Ngài đã tu tập theo pháp Tứ Đế, để đạt đến quả vị Niết bàn.

“Thưa Thế Tôn! Chúng con vì ba món khổ nên ở trong sinh tử chịu nhiều đau đớn mê lầm không hiểu biết, vui đắm các pháp Tiểu thừa.

Ngày nay Đức Thế Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân nhơ là “pháp hí luận”. Chúng con ở trong đó tinh tấn đặng đạt đến Niết bàn, giá trị chừng một ngày công đã đặng rồi tự cho mình là đủ.

Nhưng cảnh giới Niết bàn ấy chỉ mới vượt thoát phần đoạn sinh tử, dứt được tâm nhơ nhiễm, nhận ra các pháp không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không còn dấy lên những vọng tưởng điên đảo, cho như thế là đạt lý vô vi tột cùng rốt ráo. Nhưng đó chỉ là công việc của một ngày.

Vì sao thế? Vì còn trụ chấp vào quả vị tu chứng nên chỉ mới đạt được ngã không, nhưng pháp không còn vướng. Nếu chỉ muốn ở nơi chỗ an lành, tâm không dấy động, sợ đến chốn trần lao nhơ nhiễm để hóa độ chúng sinh trong vô lượng vô số kiếp sẽ bị phiền não trói buộc, thì rõ đó chỉ là người đạt tiểu pháp. Ví dụ như chúng ta đang ngồi thiền hay trì chú hoặc niệm Phật, tụng kinh, lúc hành như vậy cho là tâm định. Nhưng hết ngồi, hết tụng, hết trì, thì định cũng hết theo. Định như thế là tiểu định hay đại định?

Chỉ khi nào dùng trí tuệ biết rõ cội nguồn các pháp, ngoài lìa tướng, trong không loạn, lúc nào tâm thể cùng sáng soi, vắng lặng, ứng hợp với thời cơ, diệu dụng hành xử mà không vướng mắc ở một pháp nào cả, thì các định ấy mới gọi là đại định.

Tuy nhiên, trong khi tu theo pháp Tứ Đế, lúc ở đạo tràng các Ngài không phải không nghe Đại thừa giáo pháp. Hơn thế nữa các Ngài đã nương trí tuệ Phật mà thuyết Đại thừa cho các vị khác nghe. Nhưng chính tự thân các Ngài lại không có niệm ưa thích nơi pháp ấy.

“Chúng con lại nhân trí tuệ Phật vì các Bồ Tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp ấy”.

Cũng như thế, chúng ta ngày hôm nay, các tiểu pháp đã chẳng tu, mà nhiều khi lại đem các pháp như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định... để dạy cho hàng Phật tử. Chính tự thân ta lại chẳng bao giờ thực hành được.

Chúng ta thường bảo mọi người hãy từ bỏ tham, sân, si, từ bỏ ngũ dục. Nhưng gặp ai làm điều gì ta bất ưng ý thì sao? Gặp sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, chúng ta có thấy vướng chăng?

Như vậy chúng ta chỉ học thuộc lòng, nào là Tiểu thừa như thế này, Đại thừa như thế kia, kinh nào cũng biết, điển nào cũng thông, thế mà tham, sân, si không từ bỏ, ngũ dục không rời, làm sao dám xưng là Phật tử được. Phật tử đây không có nghĩa là chỉ cho những người tại gia quy y Phật. Mà Phật tử đây là con của đấng giác ngộ, không luận tại gia hay xuất gia, không luận quả vị tu chứng từ thấp đến cao. Miễn là kẻ ấy dám nhận cái kho tàng vô giá, như ông trưởng giả đã trao cho gã cùng tử vậy. Chúng ta hãy đọc lại câu ông trưởng giả đã nói: “Nó thiệt là con ta, ta thiệt là cha nó, nay ta có tất cả bao nhiêu của cải đều là của con ta cả”.

Nếu chúng ta thừa hưởng trọn vẹn cái kho tàng vô giá Như Lai tâm ta tự biết rằng cái kho tàng vô giá ấy cũng chính là tự tánh nhiệm mầu, nên mới nhân danh xưng là Phật tử.

Chúng ta hãy xem lại mình đã hành theo lời dạy của đấng Từ Phụ chưa?

Hàng ngày chúng ta thường phát khởi tâm từ bi, an ủi những người khổ đau. Nhưng đến khi chúng ta gặp đau khổ thì họ an ủi lại mình. Thế thì giữa ta và họ an ủi qua lại chứng tỏ tâm ta chưa thật sự an định, mà còn theo cảnh duyên, nên có sự buồn, vui, thương, ghét... Thế mà chúng ta dám đem việc an định dạy bảo mọi người.

Đức Thế Tôn từ “tánh giác viên minh” xuất nhập tự tại, đem pháp nhũ ban bố cho cả hàng trời, người muôn loài chúng sinh. Ngài đâu còn mang “tâm viên ý mã” để đi giảng pháp cho muôn loài. Đức Như Lai có đủ mười hiệu: Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Chúng taThích tử nếu không đủ mười hiệu, thì ít ra cũng được 1/100.000 của một trong mười hiệu đó, rồi mới dám ngồi trên pháp tòa để giải pháp, giờ đây tham, sân, si còn đầy dẫy, cảnh duyên còn thúc bách, ngũ dục cuốn lôi. Thế mà dám ngồi ghế pháp sư để giảng đạo, nếu đã ngồi, chúng ta hãy cẩn trọng.

Qua thí dụ về gã cùng tử, một lần nữa, Ngài Ca Diếp lại tuyên đọc kệ cho chúng hội thâm hiểu hơn. Phần kệ đã nhắc lại gã cùng tử lang thang cầu sự sống, dần dần về bổn quốc, đến nhà người cha, thấy cha giàu sang sinh tâm sợ sệt.

Bấy giờ gã cùng tử,

Đi tìm cầu ăn mặc,

Ấp này đến ấp khác,

Nước này sang nước nọ,

Hoặc có khi đặng của,

Hoặc có lúc chỉ đặng,

Đói thiếu hình gầy gò,

Thân thể sinh ghẻ lác,

Thơ thẩn đi trải qua,

Đến thành cha gã ở,

Lần lữa làm thuê mướn,

Bèn đến trước nhà cha,

Lúc ấy ông trưởng giả,

Đang ở trong nhà sang,

Giăng màn châu báu lớn,

Ngồi tòa sư tử cao,

cùng tử thấy cha,

Quá mạnh giàu tôn nghiêm,

Kinh sợ tự trách thầm,

Tại sao đến đây chi,

Nếu ta đứng đây lâu,

Hoặc sẽ bị bức ngặt,

Suy nghĩ thế vậy rồi,

Rảo bước mà chạy thẳng.

Đó là lúc đi tìm đạo, gần đến đạo rồi thấy khó quá lại thối lui.

Phần trùng tụng đoạn hai:

Ông trưởng gải thấy con mừng vui khôn xiết, cho người đuổi bắt, gã cùng tử sợ quá ngất xỉu. Ông trưởng giả bảo người hầu cận thả nó ra, cho nó đi đâu tùy ý. Rồi ngầm sai hai người đến dụ gã hốt phân.

Lúc bấy giờ trưởng giả,

Ngồi trên tòa sư tử,

Xa trông thấy con mình,

Thầm lặng mà suy nghĩ,

Ông liền bảo kẻ sứ,

Đuổi theo bắt nó về,

cùng tử sợ kêu,

Mê ngất ngã lăn đất,

Trưởng giả biết con mình,

Ngu dại lòng hẹp hèn,

...............

Ông liền dùng phương tiện,

Lại sai hai người khác,

Mắt chột thân lùn xấu,

Hạng người không oai đức,

Các người nên bảo nó,

Rằng ta sẽ thuê nó,

Hốt dọn các phân nhơ,

cùng tử nghe rồi,

Vui mừng theo sứ về,

Việc làm là hốt phân,

Sạch sẽ các phòng nhà.

Đó là Đức Thế Tôn biết rõ căn cơ của chúng sinh, dùng phương tiện Nhị thừa để dẫn dắt. Với Nhị thừa dứt trừ được phiền não, chứng đắc ngã không, nhưng chưa đạt pháp thông, nên gọi là mắt chột. Hốt phân dụ cho dứt trừ phiền não, dọn sạch ngôi nhà ngũ uẩn, dứt trừ tham dục, gọi là sạch sẽ các phòng nhà.

Phần trùng tụng đoạn ba:

Khi gã cùng tử đã nhận hốt rồi dần dần ông trưởng giả thay đổi y phục, gần gũi được con, nhận gã cùng tử là con. Chỉ cho gia sản, sự nghiệp, tập cho gã quản lý, nhưng vẫn chưa biết đó là gia sản của mình. Đến khi ông trưởng giả biết con mình đã thuần thục trong việc quản lý. Bấy giờ ông mời thân tộc cùng mọi người đến tuyên bố: gã đó chính là con mình, sự nghiệp này chính là của nó, gã cùng tử thấy mình đặng điều chưa từng có.

Cha biết lòng con rồi,

Lần lần đã rộng lớn,

Muốn giao gia tài cho,

Liền nhóm cả thân tộc,

Quốc vương các đại thần,

Hàng Sát đế lợi, Cư sĩ,

Rồi ở trong chúng này,

Tuyên nói chính con ta,

Bỏ ta đi nước khác,

Trải hơn năm mươi năm,

Đã hai mươi năm rồi,

Phàm của cải ta có,

Nhà cửa cùng nhân dân,

Hãy đều phó cho nó,

Mặc tình nó tiêu dùng,

Người con nghĩ xưa nghèo,

Chí ý rất kém hèn,

Nay ở nơi cha mình,

Đặng quá nhiều của báu,

Lòng rất đỗi vui mừng,

Đặng điều chưa từng có.

Như thế chúng ta mới thấy rõ Đức Thế Tôn, vị giáo chủ đầy lòng từ bibình đẳng tuyệt đối. Ngài đã thị hiện chiều uốn theo tánh dục của chúng sinh, chỉ bày cho chúng sinh những tiểu pháp để vượt thoát vũng lầy sinh tử. Cho đến khi thuần thục, Ngài truyền trao cho giáo pháp Tối thượng thừa.

Giờ đây chúng ta đã và đang tắm mình trong pháp nhũ đó, chúng ta hãy nhất tâm tuyên đọc lại lời kệ của Ngài Ca Diếp thị hiện phó chúc trong phần cuối phẩm:

Ơn lớn của Thế Tôn,

Đem việc ít có này,

Thương xót dạy bảo cho,

Làm lợi ích chúng con,

Trải vô lượng ức kiếp,

Ai có thể đền được,

Tay lẫn chân cung cấp,

Đầu đảnh lễ cung kính,

Tất cả dâng cúng dường,

Đều không thể đền đặng,

Hoặc dùng đầu đội Phật,

Hai vai cùng cõng vác,

Trong kiếp số hằng sa,

Tận tâmcung kính,

Cũng không đền đáp xứng.

Do vậy, muốn đáp đền ân sâu vô lượng của Đức Thế Tôn một trong triệu triệu lần, thì chúng ta hãy dõng mãnh tinh tấn chí cầu Phật đạo. Phát khởi tâm đại từ, đại bi để hoằng hóa độ sanh, dứt trừ sự tham cầu nhơ nhiễm. Các vị Tổ Đức, chư vị Pháp sư hiện hành, rỗng rang tự tại, thông hiểuđạo Nhất thừa, không vì lợi dưỡng, không vĩ ngũ dục, đã và đang truyền trao giáo pháp Đại thừa, đó là những bậc có công ơn vô kể.

Thông thường ai giúp ta được một việc gì chỉ trong một đoạn đường, một thời gian ngắn, hoặc một cơn khủng hoảng nào đó, ta đã cảm trọng ân đức của họ trọn đời.

Nhưng chư vị Pháp sự, các bậc Tổ Đức truyền trao cho ta giáo pháp của Đức Phật để chúng ta thoát ly sinh tử luân hồi, tỉnh giác bước ra vòng nhiễm chấp, vượt khỏi tam giới, trở về với “tánh giác viên minh”, với “pháp thân thường trú” hưởng dụng bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh, không hạn lượng không gianthời gian, ân đức ấy làm sao trả được.

Qua phẩm Tín Giải, một lần nữa cũng tuyên bày thí dụ để chúng ta trực nhận “Tri kiến Như Lai” một lần nữa chúng ta vững tin rằng chúng ta sẽ ngộ nhập vào “Tri kiến Phật”. Chúng ta mới có cơ may tiến sâu vào “Lý đạo Nhất thừa”, gã cùng tử mà các Ngài ẩn dụ là để chúng ta nương theo đó mà hành. Nhưng phẩn nhận chân rằng gã cùng tử ấy, ta khó mà bằng kịp.

Hãy tinh tấn, chuyên cần, hãy tỉnh giác, “Giáo môn Nhất thừa” đang rộng mở đón chờ chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11537)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10670)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10106)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15251)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14215)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11886)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10512)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16421)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12567)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13409)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11877)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11526)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12666)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12784)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9766)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17887)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8995)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12094)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12941)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10217)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15190)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12123)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14152)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10592)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant