Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

08. Phẩm Ngũ Bá Ðệ Tử Thọ Ký

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10189)
08. Phẩm Ngũ Bá Ðệ Tử Thọ Ký

Phẩm Ngũ Bá Ðệ Tử Thọ Ký Thứ Tám

 

Phẩm Hóa Thành Dụ được thuyết để đối trị những kẻ tăng thượng mạn hoặc do thiền định hoặc do tu pháp Tứ Đế chứng đặng quả vị Thanh văn cho là rốt ráo.

Nay để đối trị những kẻ tăng thượng mạn không được cho là được, không chứng cho là chứng, tâm thức vọng tưởng đảo điênkiêu mạn nên mới thuyết phẩm “Ngũ bá đệ tử lãnh ký” này.

Hơn nữa Ngài Mãn Từ Tử hay có danh xưng là Phú Lâu Na, là vị Bồ Tát hóa hiện Thanh văn. Đó là vì chúng thượng căn bậc hạ mà uốn chiều thị hiện. Để từ đó nói lên sở nguyện của chúng hội dù chưa đạt thành tri kiến Như Lai. Nhưng sau khi nghe Đức Thế Tôn dùng phương tiện, thí dụ khai mở lý đạo Nhất thừa, Ngài Mãn Từ Tử đại diện cho chúng hội thượng căn bậc hạ đã hưng phấn tự nhận ra lý đạo nhiệm mầu nên phẩm này được thuyết.

Lúc bấy giờ Ngài Mãn Từ Tử từ nơi Đức Phật nghe trí tuệ phương tiện tùy cơ nghi nói pháp như thế, lại nghe trao ký cho các vị đệ tử lớn sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại nghe việc nhân duyên đời trước, lại nghe các Đức Phật có sức tự tại thần thông, đặng điều chưa từng có, lòng thanh tịnh hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng qua một bên, chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không tạm rời mà nghĩ thế này: “Thế Tôn rất kỳ lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tánhtrong đời, dùng sức phương tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, cứu vớt chúng sinh ra khỏi chỗ tham trước, chúng con đối với công đức của Phật không thể dùng lời nóituyên dương được, chỉ có Đức Thế Tôn hay biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con”.

Điều đó đã nói lên rằng: “thể tánh viên minh” không đâu xa lạ. Chỉ rời bỏ tham trước mà đạt thành “diệu lý cao siêu”. Ngài Mãn Từ Tử thể nhập được “chân tánh nhiệm mầu” ấy mới thấy rõ rằng Đức Thế Tôn rất kỳ lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tánhtrong đời, mà dìu dắt uốn nắn để đưa chúng sinh từ mê đến giác, nhận chân được “bản lai diện mục” của mình.

Đến đây Đức Thế Tôn lại khen Ngài Mãn Từ Tử là kẻ thuyết pháp đệ nhất, biện tài vô ngại, viên chứng nhị không, đầy đủ hạnh thanh tịnh, ẩn tích nơi Thanh văn, giáo hóa kẻ khác, an lậpđạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tự lợilợi tha đầy đủ.

Do vậy, quá vô lượng vô số kiếp về sau ngươi sẽ ở cõi này thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là “Pháp Minh Như Lai”.

quốc độ của Ngài, chúng sinh thường dùng hai thức ăn: pháp hỷ thựcthiền duyệt thực. Với hai món vô lậu thực ấy mới phá hủy được bốn món hữu lậu thực: đoạn thực, xúc thực, tư thực, thức thực, luôn luôn làm tăng trưởng cho vọng niệm dấy khởi.

Khen ngợi và thọ ký cho Mãn Từ Tử đã hàm chứa sự diệu dụng phi thường của Đức Thế Tôn là chỉ cho chúng sinh thấy rõ “chân trí viên minh” nơi tự thể vốn có đầy đủ công năngoai đức tự tại.

Năm trăm vị A la hán đồng với Ngài Mãn Từ Tử thấy Ngài được thọ ký, ai cũng vui mừng, mong Đức Thế Tôn thọ ký cho mình. Kế đó Đức Thế Tôn đã thọ ký cho các Ngài.

“Bấy giờ 500 vị A La Hán ở trước Phật được trao ký xong, vui mừng nhảy nhót, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật đầu mặt lạy chân Phật ăn năn lỗi mình mà tự trách: “Thế Tôn! Chúng con thường nghĩ như vậy, tự cho mình đã rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là người vô trí. Vì sao? Vì chúng con đáng được trí tuệ Như Lai mà bèn lấy trí nhỏ cho là đủ”.

Sự hưng phấn phát khởi từ nhân hạnh Phật thừa đã thể hiện rõ rệt về sự giác ngộ thấu triệt giáo nghĩa Đại thừa.

Thể tánh viên minh vốn tự bao giờ thường tịch thường chiếu vi diệu khôn lường. Bây giờ mới nhận ra, mới phá trừ tiểu pháp mà từ lâu tự cho đó là rốt ráo.

Điều đó chẳng khác gì kẻ si mê mờ tối không nhận chân được tự tánh, vốn hiện tại, hiện tiền, không sinh, không diệt, đầy đủ diệu dụng công đức bất tư nghì. Nhưng vì vô minh trói buộc nên dù gặp Phật pháp vẫn không hề hay biết, mà đoạn kinh đã viện dẫn lời của các vị A la hán trình bày với Đức Thế Tôn: “Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm. Lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi mới lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say cho đó rồi đi. Gã đó say nằm không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu tìm rất đỗi khó nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ. Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng: Ôi chao! Anh này, sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui đem châu báo vô giá cột vào áo anh, nay vẫn còn đó, mà anh không biết. Nay anh đem ngọc báu đó đổi lấy đồ cần dùng, thì thường được vừa ý, không bị thiếu thốn”.

Bản tâm vẫn đó, diệu dụng tùy duyên. Thể tính chân thường, chân lạc, chân ngã, chân tịnh, là ngọc báu vô giá ở nơi mình. Thế mà lang thang tìm cầu ăn mặc gắng sức rất đỗi nhọc nhằn, được chút ít bèn cho là đủ.

Như thế các Ngài đã nói lên rằng sự thọ dụng tiểu pháp bấy lâu nay cho là đủ đó, giờ đây nhờ Đức Thế Tôn khai ngộ mới nhận được “viên ngọc vô giá” vẫn hiện bên mình.

Đoạn kinh đã viện dẫn: “Đức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ Tát giáo hóa chúng con khiến phát lòng cầu nhất thiết trí mà chúng con không hay không biết. Đã được đạo A la hán tự nói là diệt độ, khổ nhọc nuôi sống được chút ít cho là đủ. Nay mới biết mình thật là Bồ Tát được lãnh ký sẽ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì nhân duyên đó lòng rất vui mừng đặng điều chưa từng có”.

Một khi đã sống đúng với chân lý giải thoát, liễu được bản tâm, thực hành lục độ. Trong thì sáng suốt an nhiên, ngoài thì tùy thuận hóa hiện, đó là Bồ Tát. Thế mà không hay không biết, tự an trụ nơi Thanh văn cho là đủ, nay mới liễu triệt được đạo mầu. Do vậy phẩm “Ngũ bá đệ tử lãnh ký” đã thể hiện rõ nét con đường tiến đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không đâu xa, mà chính tự thân phải nhận chân được “bản tánh viên giác” của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32593)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6435)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30226)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12035)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12582)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34450)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10383)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10588)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10342)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16075)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7005)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12651)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16115)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11954)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13696)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9120)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11664)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11942)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15549)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11406)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14858)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13024)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20535)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13103)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17464)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13855)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31739)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant