Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

09. Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10138)
09. Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký

Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký Thứ Chín

 

Hạng thương căn bậc hạ đầu tiên đã được thọ ký đó là Ngài Mãn Từ Tử, thứ đến là Ngài Kiều Trần Như và 500 vị A la hán.

Sau đây là những người học và vô học được thọ ký vậy.

Lần thứ ba trao ký cho chúng Thanh văn bậc hạ như Ngài Mãn Từ Tử, Kiều Trần Như và 500 vị A la hán đều là bậc vô học. Những vị cùng hàng Thanh văn tiến đến địa vị tứ quả như Ngài A Nam, La Hầu La, cùng với 2.000 người khác, giờ đây mới được trao ký, nên phẩm này được thuyết. Ngài Mãn Từ Tử đứng đầu trong phẩm trao ký trước. Ngài A Nam đứng đầu trong phẩm trao ký này, vì thông với phẩm trước mà có danh xưng “thọ học, vô học nhân ký” vậy.

“Bấy giờ Ngài A Nam và Ngài La Hầu La nghĩ như vầy: chúng ta tự suy nghĩ nếu được trao ký thời chẳng sung sướng lắm sao? Liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật đầu mặt lạy chân Phật đồng bạch rằng: Thế Tôn! Chúng con trong đây cũng đáng có phần, chỉ có Đức Như Lai là chỗ nương của chúng con, lại chúng con là người quen biết của tất cả trời, người, A tu la trong đời. A Nan thường làm kẻ hộ trì pháp tạng, La Hầu La là con của Phật. Nếu Phật trao ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giáo cho, thời lòng nguyện cầu của chúng con đã mãn, mà lòng trông của chúng con cũng được đủ”.

Với ý nghĩa Ngài A Nanhội chúng đều sung sướng mong chờ Đức Thế Tôn trao ký. Chỉ có Như Lai là chỗ nương về của chúng con, chúng con đã nhận chân được chỗ nương về đó là “tri kiến Như Lai” chứ chẳng phải ở tiểu quả Thanh văn vậy.

Lời thỉnh cầu của A Nam cùng 2.000 người khác Đức Thế Tôn rõ biết và Ngài đã trao ký cho.

“Bây giờ Đức Phật bảo A Nan: Ngươi ở đời sau sẽ đặng làm Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, nước tên là Thường Lập Thắng Phan, kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn”.

Do A Nan, bậc đa văn biện tài xuất chúng, túc duyên ấy sẽ đạt thành trí tuệ cao như núi, sâu rộng như biển, không có gì ngăn cản nên có danh xưng: “Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai”.

Với sự dẫn dắt chúng sinh cùng biện tài vô ngạitiếng tăm nhiệm mầu hiển bày khắp các cõi nên có tên là “Thường Lập Thắng Phan” kiếp tên là “Diệu Âm Biến Mãn”.

“Bấy giờ trong hội hàng tân Bồ Tát phát ý 8.000 người đều nghĩ như thế này: chúng ta vẫn chưa nghe các vị Đại Bồ Tát được thọ ký như thế, có nhân duyên gì mà các Thanh văn được thọ ký như vậy?”.

Sự khởi ghi của những vị Bồ Tát mới phát tâm Đại thừa là “hàng Thanh văn bậc hạ chưa đạt quả vị A la hán mà sao Đức Thế Tôn lại thọ ký như thế, vì nhân duyên gì lại được quả vị đó?.

Đây là một ý chí cao tuyệt của các Ngài vì phát khởi lòng bi mẫn để Đức Thế Tôn giải nghi cho chúng hội về hạt giống “vô lậu” chánh nhân. Ai cũng có hạt giống “chánh nhân”, ai cũng có Phật tánh, nhưng nhờ thiện tri thức hướng dẫn khuyến thỉnh, đó là “duyên nhân”. Từ chỗ hướng dẫn khuyến khích ấy mà mình tự tin nơi mình sẽ giác ngộ, sẽ nhận chân được “bản lai diện mục” của chính mình một cách rốt ráo, đó là “liễu nhân”.

Với chánh nhân, duyên nhân, và liễu nhân, mỗi chúng sinh đều gồm đủ. Khi nhận chân được rõ ràng thì không còn gì phải nghi vấn.

Do vậy, Đức Thế Tôn đã dạy rằng: “Các thiện nam tử! Ta cùng A Nan ở chỗ Đức Phật Không Vương đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A Nan thường ưu học rộng, còn ta vì siêng năng tinh tấn, cho nên nay ta đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà A Nan hộ trì pháp tạng của ta, bổn nguyện A Nan như thế, nên mới trao ký dường ấy”.

Điều đó đã cho chúng ta thấy rõ rằng: muốn thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không phải học rộng là đủ, vì học chỉ làm thỏa mãn sự mong cầu hiểu biết. Vọng chấp trên sự hiểu biết đó mà không thấy được “tự tánh” vốn từ vô thủy vô chung, tự tại vắng lặng sáng soi không phải do học mà vào, không phải do chữ nghĩa nhiều mà vào được.

Sự “minh tâm kiến tánh” không phải có sự thể hiện thực tại, hay quán triệt thực tại mà phải siêu việt thực tại.

Phật và chúng sinh thể vốn đồng, nên Đức Thế Tôn đã bảo: “Ta và A Nan đều ở chỗ “Không Vương Như Lai”. Chính ở nơi “tánh không” ấy mà tùy duyên ứng hiện, năng quay bánh xe pháp để dìu dắt chúng sinh thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên gọi là “Như Lai”, A Nanđại bi công hạnh hộ trì pháp tạng thâm mật Như Lai. Ngài là vị Đại Bồ Tát hiện tướng Thanh văn trong chúng hội, khởi hạnh đa văn, truyền thừa giáo pháp nên lời trao ký quyết định thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là “Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai”.

Khi đó Ngài A Nan dùng kệ bạch rằng:

Thế tôn rất ít có,

Khiến con nhớ quá khứ,

Vô lượng các Phật pháp,

Như chỗ nghe ngày nay,

Con nay không còn nghi,

An trụ trong Phật đạo,

Phương tiện làm thị giả,

Hộ trì các Phật pháp.

Bấy giờ Phật bảo La Hầu La: “Người ở đời vị lai sẽ đặng làm Phật hiệu là Đạo Thất Bửu Hoa Như Lai... cũng đồng như Đức Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác. Ngươi cũng làm trưởng tử cho Phật này, qua sau đây sẽ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

La Hầu La dùng thất giác chi làm nhân hạnh (trạch pháp, tinh tấn, khinh an, hỷ, xả, niệm, định). Nên trên quả vị đạt thành có danh xưng “Đạo Thật Bửu Hoa”. Và cũng vì “mật hạnh đệ nhất” của Ngài mà được tôn xưng là “Phật tử” hay “con Phật” vậy.

Sau đó Đức Thế Tôn thọ ký cho 2.000 vị Thanh văn hữu học cùng vô học, ý chí đã hòa dịu vắng lặng trong sạch, sẽ đặng thành Phật đồng một hiệu là “Bửu Tướng Như Lai” cõi nước trang nghiêm đều đồng nhau không khác.

Với ý nghĩa muốn thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì cần phải cung kính hộ trì tạng pháp, phải thể hiện đức tính từ bi nhẫn nhục, phát đại nguyện rộng độ chúng sinhthể nhập vào lý đạo Nhất thừa. Đó là ý chỉ tối hậu của toàn phẩm vậy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33148)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6527)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11250)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30426)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7966)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12162)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11583)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12789)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34725)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52245)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10697)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10451)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13061)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21815)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9601)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7108)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10375)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16214)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16512)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13839)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16563)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13789)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11732)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15651)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12612)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14984)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13119)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14519)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20663)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13202)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10928)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20679)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14339)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20351)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17637)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31850)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12009)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant