Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Phẩm Hiện Bảo Tháp

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10180)
11. Phẩm Hiện Bảo Tháp

Phẩm Hiện Bảo Tháp Thứ Mười Một

 

Đây là phẩm kinh được viện dẫn từ Phẩm Phương Tiện. Vì tâm địa của chúng sinh vô minh phiền não phủ mờ, nên tính nhiệm mầu của Như Lai tạng không do đâu hiển hiện sáng soi từ những Phẩm trên Đức Thế Tôn đã bi nhẫn khai thị chỉ rõ về “lý đạo Nhất thừa”. Cho đến Phẩm Pháp Sư lại càng rõ hơn nữa về cái “chân lý tối hậu” vốn tự thể của chúng sinh đã đầy đủ.

- Không một pháp nào không phải là pháp Phật.

- Không một chúng sinh nào không có “Tri kiến Như Lai”.

- Không một chúng sinh nào không có “Phật pháp thân”.

Phẩm Hiện Bảo Tháp đã minh chứng rõ ràng về “tính thể nhiệm mầu của Như Lai tạng”, phi hữu, phi không, hiển hiện muôn đức trang nghiêm, không không chẳng ngại mà hữu hữu vô cùng. Điều đó đã chứng minh được rằng Pháp tánh, Phật tánh, cũng không ngoài tâm tánh.

- Pháp tánh chỉ cho ta Đa Bảo.

- Tâm tánh chỉ cho Như Lai tạng tâm hay nói cách khác là đất tâm vậy.

- Tính thể nhiệm mầu của Như Lai tạng tâm gồm cả Pháp tánhPhật tánh vậy.

“Lúc bấy giờ trước Phật có tháp bằng bảy báu cao 500 do tuần, ngang rộng 250 do tuần, từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư không.

Các món báu vật trau dồi năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng phan để nghiêm sức đó. Chuỗi ngọc báu rũ xuống, muôn nghìa linh báu treo trên tháp, bốn mặt đều thoảng đưa mùi hương gỗ ly cấu chiên đàn khắp cùng cõi nước.

Các phan lọng đều dùng bảy thức báu vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu và mai khôi hiệp thành cao đến ngang cung trời Tứ Thiên Vương”.

Như thế tháp bảy báu ấy là ảnh tượng, tượng trưng cho thân thất đại đã chuyển thành thất bảo.

Thất bảo thân này có được khi chúng ta thoát khỏi vòng nhiễm chấp. Thấy các pháp tự tánh là không. Không còn nằm trong ngũ thú, nên gọi là cao vọt 500 do tuần.

- Liễu được “ thể tính chân thường” của 25 cõi gọi là “ngang rộng 250 do tuần”.

- Từ tính thể nhiệm mầu của Như Lai tạng tâmhiển bày, nương vào chân không thật tướng mà an trụ, nên gọi là “từ dưới đấy nổi lên trụ giữa hư không”.

- Dùng năm lực: tin, tấn, niệm, định, huệ tự trang nghiêm, nên gọi là “các món báu vật trau dồi nghìn lan can”. 

- Dùng thiền định làm “phòng nhà”.

- Trí đức làm “vô số tràng phan nghiêm sức”.

- Dùng tam niệm trụ (tin Phật, chẳng tin Phật, tin hoặc chẳng tin, không hề khởi động) làm “chuỗi ngọc báu rũ xuống”.

- Dùng bốn biện tài (pháp, nghĩa, từ, lạc thuyết vô ngại biện) làm “muôn nghìn linh báu treo trên tháp”.

- Dùng Tứ nhiếp Pháp, thất thánh tàihóa độ chúng sinh thoát ly, tứ sinh (noãn, thai, thấp, hóa sinh) cùng các cõi, nên gọi là “bốn mặt đều thoảng đưa mùi hương gỗ ly cấu chiên đàn”.

Các phan lọng dùng bảy thứ báu hiệp thành cao đến ngang cung trời Tứ thiên vương vây (bốn mặt dụ ch từ nhiếp pháp, bảy báu dụ thất thánh tài, cung trời Tứ thiên vương dụ thoát ly tứ sinh).

“Bấy giờ trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng : Hay thay! Hay thay! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, năng dùng bình đẳng đại huệđại chúng nói kinh giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế ! Đúng thế ! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, như lời Phật nói đó đều chân thật”.

Chân tâm chứa đựng hằng sa công đức nên gọi là Đa Bảo.

Tiếng nói huyền diệu của chân tâm vọng về : Hay hay! Hay hay ! Khi đã nghe Đức Thế Tôn phương tiện thuyết để hiển bày chân thật tướng nên đã lập lại hai lần.

Hay thay lần thứ nhất là nghe pháp vi diệu.

Hay thay lần thứ hai là nhờ đó mà thấy được “nhất chân thật tướng pháp giới” hay thấy được “tự tánh nhiệm mầu”.

Và cũng vì chánh pháp vi diệuĐức Thế Tôn đã thuyết đều đúng như vậy. Nghĩa là phương tiện như thế, thật là chân thật tối diệu vậy.

“Bấy giờ bốn bộ chung thấy Đa Bảo tháp trụ trong hư không, lại nghe trong tháp vang tiếng nói ra, đều đặng pháp hỷ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chấp tay rồi đứng một bên, lúc đó có vị đại Bồ Tát tên Đại Nhạo Thuyết biết lòng nghi của tất cả Trời, Người, A tu la trong thế gianbạch Phật rằng: “Do nhân duyên gì mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế?”.

Nhận được rằng: chân tâm vốn có hằng sa công đức, có tiếng nói huyền diệu vọng về.

Chân lý tối hậu ấy chưa từng bao giờ nghiệm được. Hôm nay Đức Thế Tôn đã khai thị, chúng hội lòng vui khôn xiết. Nhưng vẫn còn lấy làm lạ lắm. Vừa kinh nghi sợ sệt, vừa vui mừng đón nhận, không biết có thật tự tánh nhiệm mầu không? Nên Ngài Đại Nhạo Thuyết biết chỗ nghi ấy mà thưa thỉnh để Đức Thế Tôn giải nghi cho chúng hội.

“Lúc đó Phật bảo Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát : trong tháp báu này có toàn thân Như Lai. Thời quá khứ về trước cách đây vô lượng nghìn muôn ức vô số cõi nước phương Đông, có nước tên Bảo Tịnh, trong nước đó có Phật hiệu Đa Bảo. Đức Phật đó tu hành đạo Bồ Tát phát lời thệ nguyện lớn rằng: nếu ta được thành Phật, sau khi diệt độ trong cõi nước mười phương có chỗ nào nói kinh Pháp Hoa thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng minh khen rằng: Hay thay!”.

Công đức quý báu bất khả tư nghị đó là tháp bảo. Tháp bảo ấy lại có toàn thân của Như Lai Đa Bảo, hay đúng hơn là có “Pháp thân Phật” và chỉ khi nào “Diệu Pháp Liên Hoa” được thuyết ra thì “Pháp thân” kia được hiển lộ. Điều đó còn gì vi diệu hơn, nên dùng danh ngôn “hay thay” một phương chứng vậy.

“Bấy giờ Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát do sức thần của Đức Như Lai mà bạc Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn thấy thân của Đức Phật đó”.

Hội chúng muốn thấy thân của Đức Đa Bảo, nghĩa là muốn thấy “Phật pháp thân”. Điều này vô cùng huyền diệu.

Do đó, Đức Thế Tôn bảo Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát rằng: “Phật Đa Bảo có nguyện sâu nặng, nếu lúc tháp bảo của ta vì nghi kinh Pháp Hoahiện ra nơi trước các Đức Phật. Có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười phương đều phải nhóm họp cả một chỗ, vậy sau thân ta mới hiện ra”.

Huyền diệu ở chỗ là mỗi hành vi, mỗi cử chỉ, mỗi sự việc đều diệu dụng từ trí tuệ sáng soi. Tất cả công đức của từ bi hỷ xả vô lượng vô biên trong từng niệm, và niệm niệm cùng khắp, không phải là niệm mê, đều ở cái thể an nhiên tự tại.

Thể an nhiên tự tại ấy là chỗ nhóm họp của các pháp vi diệu.

Nên kinh đã viện dẫn: “Phân thân Phật ở các cõi nước trong mười phương đều phải nhóm họp một chỗ”.

Chính bản tâm thường tịch (lặng) thường chiếu (sáng) ấy vừa dung thông vừa thâu nhiếp, đó là tháp Đa Bảo, đó là nơi Phật Đa Bảo an trụ, hiển bày.

Chỉ khi nào ánh sáng trí tuệ bừng mở mới không còn bị tương phân đối đãi, không còn bị phiền não cuốn lôi.

Chỉ có trí tuệ, tâm cảnh mới an địnhthanh tịnh. Do vậy mà phẩm kinh đã nêu:

“Bấy giờ Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặn mày, liền thấy 500 muôn ức na do tha hằng hà sa cõi nước ở phương Đông. Các cõi nước đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu, làm đồ trang nghiêm, vô số nghìn muôn ức Bồ Tát đầy dẫy trong nước đó, khắp nơi giăng màn báu, vì chúng sinh mà nói pháp, phương Nam, Tây, Bắc, cũng lại như thế”.

- Luồng sáng ấy tượng trưng cho trí tuệ.

- Lông trắng giữa chặn mày tượng trưng cho không mắc kẹt ở tương phân đối đãi.

Như vậy tâm cảnh mới nhất như, nên gọi pha lê làm đất, cây báu, y báu, làm đồ trang nghiêm. Và từ đó muôn hạnh từ bi trùm khắp cõi nước, nên gọi là Bồ Tát khắp đầy, vì chúng sinh mà nói pháp.

“Lúc bấy giờ cõi Ta bà liền biến thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để ngăn tám đường, không có các xóm làng, thôn dinh, thành ấp, sông lớn, sông nhỏ, biển cả, núi cùng rừng bụi... chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người đi nơi khác”.

Một khi tâm đã an định, trí tuệ sáng soi thì uế trược phiền não được tẩy trừ nên “cõi Ta bà biến thanh tinh”.

Tâm niệm mong cầu phước báu nhân thiên không còn vướng chấp, nên gọi là “dời các hàng trời người để ở chỗ khác”.

Chúng hội đều nhận chân được “Tri kiến Như Lai” không đâu xa lạ mà chính ở tự thân mình.

Khi nhận chân được như thế, nhưng vẫn còn e ngại nên phải tự hỏi.

“Như Lai, Bồ Tát cùng Thanh văn ít bệnh, ít não, khí lực an vui đều an ổn chăng?” Nếu là ít bệnh, ít não thì mới mở tháp cho xem được, mới bắt đầu thấy “Phật pháp thân”.

Do đó, “Đức Thích Ca Mâu Ni liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả hàng bốn chúng đều đứng dậy, chắp tay một lòng nhìn Phật. Khi Đức Thích Ca Mâu Ni dùng ngón tay hữu mở cửa tháp báu, vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn”.

Đức Thế Tôn hiển thị “lý đạo Nhất thừa”, trụ ở chỗ vô trụ, tùy thuận chúng sinh để “khai quyền hiển thật”.

Mà trong phẩm kinh đã nêu là “từ chỗ ngồi đứng dậy, trụ trên hư không, dùng tay hữu mở cửa tháp báu”.

Khai quyền hiển thậttùy thuận chúng sinh cũng là một sự kiện như trời long đất lở. Thông nhiếp các căn cơ, đem về “lý đạo Nhất thừa” làm cho bao nhiêu nhiễm chấp đều đổ vỡ, đập phá vỏ cứng vô minh như tiếng vang dội của một thành lớn bị phá tan, mà đoạn kinh đã ghi : “mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn” vậy.

Tức thời tất cả chúng hội đều thấy Đức Đa Bảo Như Lai, ở trong tháp báu ngồi tòa sư tử, toàn thân không rã như vào cảnh thiên định, lại nghe Phật đó nói: “Hay thay! Hay thay! Thích Ca Mâu Ni Phật sướng thích nói kinh Pháp Hoa đó, ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này”.

Pháp thân Phật bất sinh bất diệt, hay nói “tánh thể nhất như” không nằm trong sự tương phân “sinh tử, Niết Bàn”. Chỉ có trí tuệ mới thấy được lòng bi mẫn của đấng Từ phụ đã hiển bày “lý tánh” qua kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là một việc chưa từng tỏ ngộ một cách toàn triệt, thể nhập ở đó một cách toàn triệt. Ngày nay mới vỡ lẽ ra nên cho rằng đó là “việc chưa từng có”.

Đức Thế Tôn là đấng toàn giác luôn luôn thể nhậphiển hiện muôn pháp tối diệu.

- Thể nhập “lý tánh” thể hiện tương ứng với “lý tánh” dung thông tự tai, nên lúc đó Đức Đa Bảo Phật ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà nói rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật có thể ngồi trên nửa tòa này’.

- Sự lý viên dung, sự sự vô ngại, đó là cảnh giới bất tư nghị của “pháp giới tính nhiệm mầu” mà quả vị Phật mới đạt thành.

Do vậy, hội chúng đã liễu tri và mong cầu đạt thành như thế, nên đoạn kinh đã ghi:

“Bây giờ hàng đại chúng thấy hai Đức Như Lai ngồi xếp bằng trên tòa sư tử trong tháp báu thời đều nghĩ rằng: “Đức Phật ngồi trên cao xa cúi mong Đức Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không. Tức thời Đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không”.

Đức Thế Tôn đã dùng “phương tiện trí” chỉ rõ các pháp tự tánh là không, để chúng sinh lìa nhiễm chấp tiến đến “lý đạo Nhất thừa”, đó gọi là sức thần thông đệ nhất. Chính thần thông ấy đã làm cho hội chúng thâm nhập “Tri kiến Như Lai” vậy.

Đó là “phương tiện diệu lực” của chúng sinh từ mê đến giác, đã chứa đựng một cách vi diệu trong phần trường của phẩm kinh.

Đến đây hội chúng đã liễu tri, một lần nữa Đức Thế Tôn đã ân cần dạy bảo:

Sau khi ta diệt độ,

Ai có thể hộ trì,

Đọc nói kinh pháp này,

Thời là đã cúng dường,

Thích Ca cùng Đa Bảo,

Thời ấy thấy Thích Ca,

Cùng Đa Bảo Như Lai,

Và các vị hóa Phật.

Nếu sau các Phật diệt,

Người ở trong đời ác,

Có thể nói kinh này,

Đây thời là rất khó.

Giả sử gặp kiếp thiêu,

Gánh mang những cỏ khô,

Vào lửa không bị cháy,

Cũng chưa lấy làm khó.

Sau khi ta diệt độ,

Nếu người từ kinh này,

Vì một người mà nói,

Đây thời mới là khó.

Hợac người từ tám muôn,

Bốn nghìn các pháp tạng,

Đủ mười hai bộ kinh,

Vì người mà diễn nói,

Khiến các người nghe pháp,

Đều đặn sáu thần thông,

Dầu được như thế đó,

Cũng chưa lấy làm khó,

Sau khi ta diệt độ,

Nghe lãnh kinh điển này,

Hỏi nghĩa thú trong kinh,

Đây thời mới là khó.

Hoặc có người nói Pháp,

Làm đến nghìn muôn ức,

Đến vô lượng vô số,

Hằng hà sa chúng sinh,

Chứng đặng quả La Hán,

Đủ sáu phép thần thông,

Dầu có lợi ích đó,

Cũng chưa phải là khó.

Sau khi ta diệt độ,

Nếu người hay phụng trì,

Những kinh điển như đây,

Đây thời là rất khó,

Ta vì hộ Phật đạo,

Ở trong vô lượng cõi,

Từ thuở trước đến nay,

Rộng nói nhiều các kinh,

Mà ở trong kinh đó,

Kinh này là bậc nhất

Nếu có người tạm trì,

Thời ta rất vui mừng

Các Đức Phật cũng thế,

Người nào được như vậy,

Các Đức Phật thường khen,

Đó là rất dõng mãnh,

Đó là rất tinh tấn,

Gọi là người trì giới,

Bậc tu hạnh đầu đà,

Thời chắc sẽ mau đặng

Quả vô thượng Phật đạo,

Sau khi ta diệt độ,

Có thể hiểu nghĩa này,

Thời là mắt sáng suốt,

Của trời người trong đời,

trong đời kinh sợ,

Hay nói trong chốc lát,

Tất cả hàng trời người,

Đều nên cúng dường đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33281)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11302)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30414)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30442)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7990)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12213)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12267)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11614)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12842)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34801)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9855)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52277)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10759)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10725)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16300)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21859)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9633)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7134)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12777)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12803)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16243)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16544)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13874)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16608)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13839)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14337)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9222)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11766)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11287)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16348)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14363)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16208)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12092)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11803)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15675)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11524)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14027)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12021)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12671)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15003)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11969)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13139)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14565)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20735)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13245)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10972)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20722)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14377)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20404)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17673)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31867)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12026)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant