Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

13. Phẩm Trì

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10577)
13. Phẩm Trì

Phẩm Trì Thứ Mười Ba


Trì là nắm giữ.

Giữ gìn kinh này chẳng cho rơi mất.

Cố gắng khắc sâu vào lòng mà hiển lộ ra ngoài đó là phụng trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết. Nghĩa là phải diễn đạt sự khắc sâu ấy bằng lời nói, bằng việc làm để tự lợi, lợi tha.

“Lúc bấy giờ Ngài Dược Vương Bồ Tát và Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát cùng chung với quyến thuộc hai muôn vị Bồ Tát đều ở trước Phật nói lời thệ rằng: Cúi mong Đức Thế Tôn chớ lo, sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ phụng trì, đọc tụng, diễn nói kinh này”.

Từ những phẩm trước chúng hội đã liễu tri về “Tri Kiến Phật”, nhận ra “Tri Kiến Phật” nơi tự thân mình. Nhưng tri kiến Như Lai ấy được hiển lộ là nhờ Diệu Pháp. Diệu Pháp thâm mật này cần phải kiên trì, kham nhẫn, tinh tấn, dõng mãnh thì mới có thể nhận được.

Vì sau khi Đức Như Lai diệt độ, chúng sinh căn lành càng ít, bạc nhược, si mê, không có “viễn đại chí”, được ít cho là đủ. Lại khởi tâm khinh mạn, đắm mê nơi ngũ dục, xa rời “lý đạo Nhất thừa”. Do vậy, các vị Đại Bồ Tát hiện hành phát khởi đại bi tâm, vì chúng sinh mà ban pháp âm vi diệu.

Dù có khó khăn đến đâu, dù ở cảnh giới nào các Ngài cũng hiện sức trí tuệ vi diệu chẳng tiếc thân mạng, vì chúng sinhlưu truyền Diệu Pháp Liên Hoa, để chúng sinhcơ duyên phát khởi Đại thừa tâm trở về “tự tánh sáng soi, tự tánh chân chính, tự tánh thanh tịnh” của mình.

Do vậy, đoạn kinh được viện dẫn: “Đời ác sau chúng sinh căn lành càng ít, nhiều kẻ tăng thượng mạn, tham lợi, dưỡng cúng dường, thêm lớn căn chẳng lành, xa lìa đạo giải thoát. Dầu khó có thể giáo hóa, chúng con sẽ khởi sức đại nhẫn nhục, đọc tụng kinh này, thọ trì, giải nói, biên chép, dùng các món cúng dường cho đến chẳng tiếc thân mạng”.

Điều đó cho chúng ta thấy rằng: chỉ có chư vị Đại Bồ Tát mới có thể phát lời thệ nguyện thọ trì kinh này ở nơi cõi Ta bà, mà các hạng Thanh văn chẳng kham được.

Nên, “Lúc đó trong chúng có 500 vị A la hán đã đặng lãnh thọ ký đồng bạch Phật rằng: Thế Tôn! Chúng con cũng tự thệ nguyện nơi cõi khác rộng nói kinh này”.

Lại có bậc học và vô học tám ngàn người đã đồng lãnh thọ ký đồng từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về phía Phật nói lời thệ rằng: Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở nước khác nói kinh này. Vì sao? Vì người trong nước Ta bà nhiều điều tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, giận hờn, dua vạy, tâm không chân thật”.

Do vậy, chúng ta mới thấy rõ hơn là trong thế giới ngũ trược, người gánh vác huệ mạng Như Lai phải là bậc đại căn đại trí, không thể dùng tiểu tâm khiếp nhược mà gánh vác nổi. Bởi tà kiến, tham, sân, si ẩn tàng trong tâm thức. Lời nói nhiều khi bóng bẩy nhưng sự sống lại không có chút nào xứng hợp với tri kiến Như Lai.

Năm trăm vị A la hán, và tám ngàn vị hữu học cùng vô học tuy đã nhận lãnh lời trao ký thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng các Ngài vẫn thị hiện sự e dè đối với đời ác ngũ trượccõi Ta bà này.

Các Ngài đã nhắc nhủ cho chúng ta thấy rõ rằng: việc trì kinh thì ai ai cũng có thể trì được. Từ bậc Đại Bồ Tát, bậc A la hán, xuống đến hàng hữu học, vô học, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni... nghĩa là bậc đại trí giàu đức tính vô ngã vị tha, xuống bậc đã trừ sạch nhân hữu lậu trong ba cõi, những bậc nhập lưu theo chiều hướng giải thoát. Hạng người quyết tâm cầu đạo giải thoát đều có thể lãnh hội thọ trì kinh Pháp Hoa. Nhưng muốn truyền trao Diệu Pháp tối thượng thừa này cần phải có các đức tính vô ngã, vị tha, nghị lực phi thường, biện tài vô ngại, rõ thông các pháp thế gianxuất thế gian, sống xứng hợp với tự tính thanh tịnh và truyền trao Diệu Pháp bằng nhiều phương tiện. Đó mới là người trì kinh Pháp Hoa. Các vị Tỳ kheo Ni sau khi được Đức Thế Tôn thọ ký sẽ đặng thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng chỉ xin thọ trì kinh này “ở cõi nước khác” chứ không ở cõi Ta bà này.

Điều đó đủ nói lên rằng dù căn cớ nào, hạng loại nào, nếu nằm trong cảnh duyên trái nghịch ô nhiễmliễu tri cùng sống xứng hợp với tánh lý nhất như mới là bậc đại trí, đại Bồ Tát vậy.

Hơn nữa, muốn nắm giữ kinh này, nắm giữ được chân lý tối hậu của chư Phật truyền trao, để tạo cho chúng sinh nhận chân được lý tánh thì phải mặc áo giáp nhẫn nhục. Nghĩa là phải hết sức chịu đựng trước sự tấn công của muôn vạn thứ ma chướng quấy nhiễu, mới vì chúng sinhtuyên thuyết kinh này.

Nên đoạn kinh đã viện dẫn: “Các vị Đại Bồ Tát ở trước Phật lớn tiếng như sư tử rống mà phát thệ rằng: “Thế Tôn! sau khi Như Lai diệt độ, chúng con đi giáp vòng qua lại, khắp mười phương thế giới hay khiến chúng sinh biên chép kinh này, thọ trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, nghĩ nhớ chân chính đúng như Pháp mà tu hành”. Tức thời các vị Bồ Tát đều đồng tiếng nói kệ rằng:

Cúi mong Phật chớ lo,

Sau khi Phật diệt độ,

Trong đời ác ghê sợ,

Chúng con sẽ rộng nói

Có những người vô trí,

Lời ác mắng rủa thảy,

Và dao gậy đánh đập,

Chúng con đều phải nhẫn

Tỳ kheo trong đời ác

Trí tà lòng dua vạy,

Chưa được nói đã được,

Lòng ngã mạn dẫy đầy.

Hoặc người mặc áo nạp,

Lặng lẽ ở chỗ vắng,

Tự nói tu chân đạo,

Khinh dễ kẻ nhân gian,

tham lam danh lợi,

Nói pháp cho bạch y,

Được người đời cung kính,

Như lục thông La Hán,

Người đó ôm lòng ác,

Thường nghĩ việc thế tục,

Giả danh A Luyện Nhã,

Ưa nói lỗi chúng con.

Lời kệ trên các vị Đại Bồ Tát đã nêu ra các trường hợp có thể diễn ra trong đời ác năm trược. Như hạng giả danh Tỳ kheo mặc áo kẻ tu hạnh đầu đà, nghĩa là mặc phấn tảo y thường đi khất thực, ngồi một chỗ mà ăn, ăn vật thực trong bát mình xin được, qua giờ ngọ không ăn nữa, ở nơi chỗ vắng vẻ, thường ở cội cây, nơi chỗ trống, nơi mộ đá, thường ngồi ít nằm... lại giả danh A Luyện Nhã, là giả danh tu hạnh đầu đà như đã nêu trên mà khinh rẻ mọi người. Tâm lại thường tham lam lại lợi, tự cho là đạt thành quả vị và nói là chúng con vì tham lợi dưỡng nói luận nghĩa của ngoại đạo, mà:

Tự làm kinh điển này,

Dối gạt người trong đời,

Vì muốn cầu danh tiếng,

Mà giải nói kinh này,

Thường ở trong đại chúng,

Vì muốn phá chúng con,

Đến quốc vương, quan lớn,

Bà la môn, cư sĩ,

Và chúng Tỳ kheo khác,

Chê bai nói xấu con,

Bảo là người tà kiến,

Nói luận nghĩa ngoại đạo.

Đó là những kẻ vô trí, chẳng hiểu được lý kinh mà cho người trì kinh này là tà kiến, làm gì chúng sinh lại có “tri kiến Như Lai”.

“Chúng con vì kính Phật,

Đều nhẫn các ác này,

Bị người đó khinh rằng,

Các người đều là Phật,

Lời khinh mạn dường ấy,

Đều sẽ nhịn chịu hết.

Vì kính Phật trọng pháp mà kẻ xấu ác lại mỉa mai cho là “các ngươi đều là Phật”, lời mỉa mai nặng nề ấy chúng con đều kham nhẫn được.

Trong đó ác kiếp trược,

Nhiều các sự khủng bố,

Quỷ dữ nhập thân kia,

Mắng rủa hủy nhục con,

Chúng con kính tin Phật,

Mặc áo giáp nhẫn nhục,

Vì để nói kinh này,

Nên nhẫn các việc khó,

Con chẳng tiếc thân mạng,

Chỉ tiếc đạo vô thượng,

Chúng con ở đời sau,

Hộ trì lời Phật dặn,

Thế Tôn đã tự biết,

Tỳ kheo đời ác trược,

Chẳng biết Phật phương tiện,

Tùy nghi nói ra pháp,

Nhăn mày nói lời ác,

Luôn luôn bị xua đuổi,

Xa rời nơi chùa tháp,

Các điều ác như thế,

Nhớ lời Phật dặn bảo,

Đều sẽ nhẫn việc ấy.

Đó là sức phương tiện, Đức Thế Tôn một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Lại đắm chấp chê bai cho các vị Bồ Tát dùng phương tiện giáo hóa chúng sinhngoại đạo.

Các thành ấp xóm làng,

Kia có người cầu pháp,

Con đều đến chỗ đó,

Nói pháp của Phật dặn,

Con là sứ của Phật,

Ở trong chúng không sợ,

Con sẽ khéo nói pháp,

Xin Phật an lòng cho,

Con ở trước Thế Tôn,

Mười phương Phật đến nhóm,

Phát lời thệ như thế,

Phật tự rõ lòng con.

Như thế phẩm Đề Bà Đạt Đa và phẩm Trì đều nói lên sự chướng ngại có thể làm cho chúng sinh xa rời tánh giác. Trước chướng duyên, trước kẻ nghịch dễ làm cho chúng sinh dao động. Chúng sinhnhiễm trước mà vọng động nên vô minh bao trùm “tự tánh nhiệm mầu”.

Do đó, Đức Thế Tôn đã thương xót chỉ bày sự liễu ngộ tự tâm, trở về với “bản giác diệu minh thanh tịnh” vừa mới trực nhân đó, chớ để những lời chướng duyên bao phủ mà vọng tâm dấy khởi.

- Đại Bồ Tát Dược Vươngý nghĩa tượng trưng cho bậc đại y vương tài giỏi có đủ khả năng trị các bệnh tà kiến, tự tôn, tự ti của mọi loài.

- Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết có ý nghĩa tượng trưng cho bậc biện tài vô ngại, có khả năng diệt trừ tà kiến, đưa chánh kiến trở về cho muôn loài.

Đó là chư vị Bồ Tát thị hiện để chỉ cho chúng hội rằng: chỉ có trí tuệ Bát Nhã, và biện tài vô ngại thì mới có thể triển khai giáo pháp Tối thượng thừa. Nghĩa là triển khai Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu không có đủ trí lựcpháp lực thậm thâm vi diệu, mà chỉ vì danh tướng, lại dám tuyên thuyết kinh này thì bánh xe pháp sẽ quay ngược lại.

Bệnh tà kiến, biên kiến, kiến thủ sẽ phủ mờ chân tánh, nó biến thành mũi tên lao nhanh vào địa ngục. Luận Hiển Dương Chánh Giáo ghi:

Tâm sinh chủng chủng pháp,

Tùy duyên thủy thượng âu,

Tánh chân như bất biến,

Như thủy bổn thanh trừng,

Bất biến tùy duyên chân thử tánh,

Tùy duyên bất biến thị tha tâm,

Minh tâm, minh liễu âu bào thượng,

Kiến tánh thâm tri thúy diện trừng.

Dịch:

Tâm sinh ra muôn pháp,

Tùy duyên sóng nước xao,

Tánh chân như bất biến,

Như nước vốn lặng trong,

Bất biến tùy duyên là tánh ấy,

Tùy duyên bất biến chính tâm này,

Minh tâm nhận rõ lao xao sóng,

Kiến tánh nhìn sâu mặt nước bằng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12518)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10852)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11196)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12005)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13156)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13643)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33674)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13062)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17901)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11449)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11864)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11512)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18980)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12555)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11347)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15781)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11824)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11700)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12637)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13972)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13000)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12953)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13302)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12776)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11754)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11739)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12329)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19827)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11964)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11994)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12675)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15065)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16123)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12884)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11920)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13155)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16510)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11823)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11164)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11263)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10973)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10038)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant