Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

17. Phẩm Phân Biệt Công Ðức

27 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10503)
17. Phẩm Phân Biệt Công Ðức

Phẩm Phân Biệt Công Ðức Thứ Mười Bảy


Vì đã tin hiểu được “tự tánh nhiệm mầu” không sinh, không diệt. Nhận chân được “pháp thân Phật” nơi huyễn thân không đồng, không khác.

Tuy nhiên sự trực nhận như thế cũng tùy theo căn cớ của chúng sinh mà có cạn câu, nên sự lợi ích vi diệu cũng theo từng bậc giác ngộso sánh. Do vậy mà Phẩm “Phân Biệt Công Đức” được thiết lập.

“Khi đó Đức Thế Tôn bảo Ngài Di Lặc Đại Bồ Tát : A Dật Đa! Lúc ta nói Đức Như Lai thọ mạng dài lâu như thế. Có sáu trăm tám muôn na do tha hằng hà sa chúng sinh đặng “vô sinh pháp nhẫn”.

Nghĩa là khi Đức Thế Tôn thuyết như thế có vô số chúng sinh đã trực nhận và an trụ nơi “thể tánh nhất như” không còn nhiễm trước bởi “các cảnh duyên nên gọi là đặng “vô sinh pháp nhân”.

Bởi vì không nhiễm trước nên niệm khởi không bị mê mờ phân biệt gọi là ‘vô sinh”. An trụ trong thể “vô sinh” ấy nên đặng “vô sinh pháp nhẫn”.

Và từ đó “mặt trời trí tuệ” đã bừng mở đặng pháp “tổng trì” giữ lấy trọn vẹn như thiện pháp. Như kinh đã viện dẫn:

“Lại có Đại Bồ Tát nghìn lần gấp bội đặng môn “văn trì Đà la ni” với “tự thể sáng soi” năng quay bánh xe pháp, biện tài vô ngại, mà kinh đã viện dẫn: Lại có một thế giới vi trần số Đại Bồ Tát đặng nhạo thuyết vô ngại biện tài”.

Ở nơi thể đại binh (toàn Đà la ni) rõ thông các pháp, tinh tấn, thanh tịnh hoàn toàn, nên kinh viện dẫn: “Nghìn muôn ức vô lượng môn toàn Đà la ni, lại có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số Đại Bồ Tát chuyển pháp luân bất thối (tinh tấn). Vi trần số Đại Bồ Tát chuyển được pháp luân thanh tịnh”.

Sự tin hiểu được lời dạy của Đức Thế Tôn về “Như Lai thọ lượng” đã làm cho chúng hội phát khởi tâm hạnh Phật thừa. Nơi đạo tràng nhân hạnh đó đã biến thành những hoa hương tràng phan, bảo cái... vi diệu quý báu để tung lên cúng dường “Đức Thích Ca Mâu Ni cùng Đa Bảo Phật đang ngồi trên tòa sư tử trong tháp bảy báu giữa hư không”.

Khi ấy Ngài Di Lặc dùng kệ tuyên lại rằng:

Phật nói pháp ít có,

Từ xưa chưa từng nghe,

Thế Tônđại lực,

Thọ mạng chẳng thể lường,

Vô số các Phật tử,

Nghe Thế Tôn phân biệt,

Nói đặng pháp lợi ích,

Vui mừng trụ bất thối,

Hoặc đặng Đà la ni,

Hoặc vô ngại nhạo thuyết,

Muôn ức triệu tổng trì,

Hoặc có cõi đại thiên,

Số vi trần Bồ Tát,

Mỗi vị đều nói được,

Pháp luân bất thối chuyển,

Lại có trong thế giới,

Số vi trần Bồ Tát,

Mỗi vị đều có thể,

Chuyển pháp luân thanh tịnh”.

Cho đến những chúng sinh nào chỉ cần một niệm tín giải về “Như Lai thọ lượng” thì công đức của chúng sinh kia hơn kẻ nhiều kiếp lâu xa tu hành năm pháp Ba la mật như: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định. Ngoại trừ “trí tuệ” Ba la mật. Vì đã tu về Bát Nhã Ba la mật thì năm công đức kia tự nó cũng đến chỗ viên mãn vậy.

Nên đoạn kinh đã viện dẫn: “A Dật Đa ! Có chúng sinh nào nghe Đức Phật thọ mạng lâu dài như thế nhẫn đến có thể sinh một niệm tín giải, đặng công đức không thể hạn lượng được”.

Bởi vì “Như Lai thọ lượng” chính là “tự tánh nhiệm mầu”. Nếu tin có “tự tánh nhiệm mầu” nơi tự thể của chúng sinh thì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không còn xa nữa.

“Lại nữa! A Dật Đa! Nếu có người nghe nói Đức Phật thọ mạng dài lâu, hiểu ý thú lời nói đó, người này đặng công đức không có hạn lượng, huống là người rộng nói kinh này. Công đức của người này vô lượng vô biên, có thể sinh nhất thiết chủng trí”.

Như vậy chúng sinh nào hiểu được thâm ý của Đức Thế Tôn khi thuyết về “Như Lai thọ lượng” là chúng sinh ấy đã trực nhận “bản tâm”, Phật trí khai mở. Công đức ấy thật không thể nào kể xiết (kiến tánh là công, bình đẳng là đức, lời của Lục Tổ Huệ Năng).

Vì sao? Vì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu, các pháp hữu vi sinh diệt không ảnh hưởng gì đến sự tùy thuận ứng hiện của “bản tâm”. Các pháp hữuvi cũng không phải là pháp đối đãi của bản tâm. Sự thể nhập dung thông không ngằn mé, như thế chúng sinh ấy đã nhận rõ cõi Ta bàTịnh độ. Phiền não chướng, sở tri chướng trở thành các pháp diệu dụng đối với Như Lai tạng tâm.

“A Dật Đa! Nếu thiện nam, thiện nữ nhân nghe ta nói thọ mạng dài lâu sinh lòng tin hiểu bền chắc thời chính là thấy Đức Như Lai thường ở núi Kỳ Xà Quật cùng chúng Đại Bồ TátThanh văn vây quanh nói Pháp. Lại thấy cõi Ta bà đất bằng lưu ly ngang liền bằng phẳng... cây báu bày hàng, các lâu đài nhà cửa thảy đều do các thứ báu hiệp thành, chúng Bồ Tát đều ở trong đó”.

Nghe và tin hiểu bền chắc về “Như Lai thọ lượng” là chúng sinh ấy đã nhận chân được mọi chúng sinh đều có “tự tánh nhiệm mầu”. Như thế mọi hành vingôn ngữ không còn nằm trong phạm trù tương phân đối đãi.

Chúng sinh ấy sẽ nhận rõ cõi Ta bà cực kỳ thanh tịnh. Sự thanh tịnh này không phải dựa vào uế tịnh để so sánh, mà do trực nhận từ “bản thể nhất như” của mỗi chúng sinh mà có được.

Tin hiểu về “Như Lai thọ lượng” là “minh tâm kiến tánh”. Nhận ra “lý vô sinh” chứng nhập “thể vô sinh” mà đạt thành đạo cả.

Do vậy mà đoạn kinh đã nêu:

“Sau khi Như Lai diệt độ, nếu chúng sinh nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn nói kinh này”. Nghĩa là có muôn hạnh, muôn đức viên dung tùy cơ nghi thuyết pháp thì “phải biết chúng sinh đó đã đến đạo tràng, gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ngồi dưới cây đại thọ”.

”Chỗ của thiện nam, thiện nữ nhân ấy hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi trong đó bèn nên xây tháp, tất cả trời người đều phải cúng dường như tháp của Phật”.

Do vì năng trì kinh này mà chúng sinh ấy mọi hành vi tạo tác đều tương ưng với “lý tánh”. Bởi tin hiểu và sống tương ưng với “tự tánh nhiệm mầu” không sinh, không diệt, tùy thuận muôn pháp hoằng hóa độ sinh mà chẳng nhiễm trước pháp nào. Do vậy:

Nếu thấy Pháp sư này,

Trọn nên đức như thế,

Phải dùng hoa trời rải,

Áo trời trùm thân kia,

Đầu mặt tiếp chân lạy,

Sinh lòng tưởng như Phật,...

Chỗ trụ chỉ của kia,

Kinh hành hoặc ngồi nằm,

Nhẫn đến nói một kệ,

Trong đây nên xây tháp,

Trang nghiêm cho tốt đẹp,

Các món đem cúng dường,

Phật tử ở chỗ này,

Thời là Phật thọ dụng,

Thường ở nơi trong đó,

Kinh hành và ngồi nằm”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14696)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11756)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12704)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10264)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12004)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15221)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11020)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10464)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12411)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16363)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14251)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11722)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14736)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11980)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16760)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11521)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12674)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11286)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11998)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51998)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15408)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13923)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11397)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13126)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12726)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13170)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17842)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12399)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12593)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54130)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14359)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9877)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13768)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57860)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14436)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20063)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13719)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15333)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17433)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13271)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11869)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13446)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14615)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12436)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12105)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12022)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13243)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12471)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13597)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13288)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25494)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12146)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14477)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11800)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42011)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28255)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38723)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14669)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12652)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16191)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant