Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương VI. Kết Luận

27 Tháng Mười 201000:00(Xem: 15524)
Chương VI. Kết Luận

CHƯƠNG VI.
KẾT LUẬN


I. TƯ TƯỞNG TRIẾT LÝ

 

Để tổng kết và mở ra một tầm nhìn có thể có đối với sự nghiệp tư tưởng của Phái Thiền Trúc lâm Yên tử, chúng ta nên ghi nhớ hai tác phẩm trọng yếu đã mở đầu cho phái Thiền này. Đó là bản Ngữ lục của Tuệ trung Thượng Sỹ và Khóa hư lục của Trần Thái Tông. Hai tác phẩm này, một đằng có thể khảo sát trên khía cạnh lý thuyết, và một đằng có thể được chiêm nghiệm trên phương diện thực hành, là những bản tổng kết của một thời gian dài phát triển tư tưởng của Phật giáo Việt nam.

Thượng Sỹ Ngữ lục, một cách nào đó, có thể không mấy có tính chất sáng tạo về mặt tư tưởng Thiền, nhưng quả thực nó là sự kết tinh của Thiền học và tất cả các tông phái Đại thừa khác tại Việt Nam. Nhờ vào hệ thống công án, Thượng Sỹ Ngữ lục đã có thể phát biểu kiến giải của mình một cách thông dong về tất cả các chủ điểm ách yếu trong các khuynh hướng dị biệt của Phật học. Sau Thượng Sỹ ngữ lục, công án vẫn còn được tiếp tục với tinh thần tương tợ, như chúng ta có thể thấy trong Tam tổ đã tạo ra cho công án một vóc dáng lớn, bao hàm cả tư tưởng Tam giáo, không riêng gì Thiền hay Phật giáo.

Từ các công trình đã được thực hiện, chúng ta thấy hình như còn có những vấn đề chưa được khai thác tận căn đề. Nêú lịch sử đã để dành cho Thiền Trúc lâm có các cơ hội thuận thiên hơn, có lẽ chúng ta đã có một trường phái Phật học rất xứng danh. Ở đây, xin ghi nhận một vài vấn đề có thể có mà chưa khai triển.

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHẤT TÂM

Thọat nhìn, chưa ai thấy đây là vấn đề mới mẻ và đặc sắc của Trúc lâm. Trong các lời nói của các người khai sáng nhà Trần, hay khai sáng Thiền Trúc lâm, tâm thường được nhắc đến theo nghĩa rất bình thường. Nhưng cho tới khi Đại chân Viên giác thanh xuất hiện, chân tâm đó mặc nhiên được gắn liền với chân tâm của kinh Lăng nghiêm. Đây chỉ là sự nương tựa cần phải có, nghĩa là cần có một hậu thuẫn từ kinh văn của Phật giáo Đại thừa. Điểm đáng lư ý hơn, là cái chân tâm đã được đồng hóa với Thiên địa chi tâm. Nếu chân tâm có hai tác dụng như thực và diệu dụng phổ biến, thì thiên địa chi tâm cũng biểu hiệu dưới những tác dụng tương giao của âm và dương. Đến chỗ này, thì biểu hiệu cụ thể nhất của tương giao tác dụng đó phải nói là thời tiết. Và như vậy, thời tiết như là nguyên lý hữu hiệu để làm căn bản cho pháp môn tu tập được mô tả trong Khóa hư lục. Đây là sự phản ảnh quá rõ sự phối hợp niềm tin siêu hình bắt nguồn từ Ấn độ với một xã hội liên tục phấn đấu với thiên nhiên để tồn tại.

Nếu chúng ta nói một cách khác, Chân Tâmbản thểthời tiếttác dụng, nhất dịnh chúng ta tưởng tượng ra được chiều hướng phát triển Trúc lâm. Nhưng lịch sử đã không cho phép có sự phát triển rầm rộ về điểm đó. Tuy nhiên, nếu có đủ thì giờ khảo cứu, với những tư tưởng gia lỗi lạc, ngày nay chúng ta vẫn hy vọng làm sống dậy thể tài này với tất cả các sắc thái độc đáo của nó, ít nhất là về mặt học thuật.

TRIẾT LÝ ÂM THANH

Chỉ từ nhà Lê về sau người ta mới thấy quả có một nền triết lý về âm thanh trong Thiền học Trúc lâm. Trước đó, hiệu lực của âm thanh vẫn được coi trọng, đặc biệt trong các lối trì tụng chân ngôn của Mật giáo. Thế nhưng, triết lý về âm thanh như được trình bày trong Đại chân Viên giác thanh lại không có liên hệ gì tới Mật giáo. Nguồn mạch của nó là kinh Thủ-lăng-nghiêm và dịch học Trung hoa. Ngoài sự kiện hình như được gợi hứng từ hạnh nguyện tầm thanh cứu khổ của Bồ tát Quán Thế Âm, triết lý âm thanh trong Đại chân Viên giác thanh còn là một nổ lực cho tư tưởng Tam giáo đồng qui, nhưng chính âm thanh mới là tác dụng kéo tất cả về một mối. Nổ lực này có tầm mức quan trọng đáng kể. Quan trọng nhất, là nhắm giải quyết sự xung đột giữa Phật của Ấn độtruyền thống của Trung hoa mà hậu quả còn dây dưa cho đến Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là mới nổ lực dự tưởng, và công trình đó không được nhắc nhở, cho nên trong nhất thời chúng ta khó nhận xét đúng mức về chiều hứng phát triển có thể có của nó.

 

 II. TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO

 

Chúng ta đã biết rằng, có những dữ kiện rất sớm trong lịch sử chung của Phật giáo Trung hoa và Việt nam, chứng tỏ rằng đất Giao châu ngày xưa và Bắc kỳ ngày nay là khu vực của thần bí, của tín ngưỡng tôn giáo. Đó là khu vực gây nên những tinh thần trái ngược với khuynh hướng tư tưởng xã hội của Trung hoa ở Bắc phương. Khởi hành từ Trung hoa, càng đi về phía Nam, sắc thái thần bí của tín ngưỡng tôn giáo càng nặng. Cho nên, Giao châu đã là một nơi thu hút những tâm hồn thiên trọng tín ngưỡng tôn giáo của người Trung hoa. Dân bản xứ cố nhiên đã có thiên bẩm tôn giáo đặc biệt.

Trải qua thời gian dài của lịch sử, qua nhiều cuộc cai trị với những chính sách văn hóa của người Trung Hoa, sắc thái thần bítín ngưỡng tôn giáo của giống dân Giao chỉ cũng phải chịu nhiều thay đổi. Cuối cùng, người ta chứng kiến tại đây đã có mặt của một nền tôn giáo thế tục. Nghĩa là một nền tôn giáothần linh cũng có các quan hệ bổn phận với gia đìnhxã hội, ngoài khả năng siêu nhiên của mình. Tín ngưỡng nổi bật nhất là tín ngưỡng Quán Thế Âm.

Về mặt sinh hoạt thực tế, chúng ta khó mà biết nền tín ngưỡng này liên hệ với phái Thiền Trúc lâm như thế nào. Nhưng về mặt tư tưởng thì quả tình Đại chân Viên giác thanh đã nổ lực xây dựng một nền triết học đồng qui cho Tam giáo trên căn bản tín ngưỡng này.

Trước thời Lê, và có lẽ cả thời Trần, tín ngưỡng tôn giáothế lực rất lớn trong xã hội Việt nam. Những phong trào chính trị lớn của lịch sử đã có liên hệ với các hoạt động lấy tín ngưỡng tôn giáo làm phương tiện. Nhưng từ nhà Lê về sau, hai tín ngưỡng Quán Thế Âm xuất hiện như là điểm cao nhất trong quá trình phát triển ý thức tôn giáo của Việt nam, chúng ta thấy gần như không còn có phong trào chính trị nào đích thực có tính chất vận động tôn giáo như trước kia. Tín ngưỡng Quán Thế Âm chỉ giới hạn trong các tương quan xã hội, với một đạo đức không chỉ nói tới quan hệ bổn phận giữa các người sống, mà còn quan hệ với tất cả người sống cũng như người chết, và mức quan hệ còn rộng rãi hơn nữa. Đây là sự kết hợp của tín ngưỡng tôn giáo Đại thừa với trật tự luận lý của Khổng giáo. Cho nên, tín ngưỡng Quán Thế Âm đích thực đã tạo cho tín ngưỡng bình dân Việt Nam hoàn toàn là một nền tín ngưỡng thế tục.

Đây cũng có thể nói là chiều phát triển của Phật giáo trong lòng quần chúng. Tức là, vẫn nỗ lực hướng tới lý tưởng cao cảkinh điển đề ra, nhưng đồng thời cũng không quên các bổn phận rất thông tục theo truyền thống cố hữu của mình.

 

III. SỰ NGHIỆP PHẬT GIÁO CỦA TRÚ LÂM

 

Tư tưởng triết lý, và tín ngưỡng tôn giáo là hai thành quả lớn mà Thiền Trúc lâm đã mang lại cho Phật giáo Việt nam, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, vì chính Trúc lâm đã sáng tạo một lối học và hành đặc sắc trên phương diện triết lý. Nói là gián tiếp, vì tín ngưỡng tôn giáotinh thần cố hữu mà Trúc lâm thừa hưởng, và chỉ đóng góp một phần nào cho sự tiến bộ của nó về sau. Hai phương diện đó là những đóng góp lớn lao của Trúc lâm qua các điểm khác. Các điểm này sẽ được bao gồm trong hai điểm lớn: Lý tưởngthực tế.

Về phương diện lý tưởng, Trúc lâm quả tình đã kết hợp khéo léo giữa lý tưởng Quốc giaPhật đạo. Sáo ngữ ngày nay thường nói Phật giáo và Dân tộc. Đây không chỉ cách nói tuyên truyền nhất thời với một hậu ý chính trị nào đó. Lý tưởng Quốc giaPhật đạo đã có mặt trước cả đời nhà Trần, như chúng ta chứng kiến trong các cuộc vận động cho quyền tự chủý thức dân tộc của các Thiền sư trước thời Lý. Cho đến đời nhà Trần, lý tưởng này đã được khẳng định nhiều lần do chính miệng của những người sáng lập triều đại nhà Trần.

Nếu xét kỹ, có lẽ chúng ta phải thấy rằng lý tưởng Quốc giaPhật đạo vốn là khía cạnh của lý tưởng tôn giáo đại đồng. Đó là một nền tín ngưỡng lấy niềm tin nơi con người làm đối tượng cứu cánh, không giới hạn vào biên giới quốc gia. Tư tưởng Tam giáo đồng qui thực sự cũng được hỗ trợ bởi một lý tưởng tôn giáo như thế.

Về mặt thực tế, điểm phải kể trước nhất là các nhà khai sáng Trúc lâm đã tạo cho Phật giáo Việt nam kể từ đây trở đi mang nhiều sắc thái thế tục hơn. Một phần, vì những nhà lãnh đạo tinh thần thời đó là cư sĩ. Vừa có thẩm quyền về đạo cũng như về đời, nên ảnh hưởng về thái độ thể hiện giáo lý của Phật thực tế không phải là nhỏ. Phật giáo thế tục, tức Phật giáo bận tâm nhiều đến các công tác thế tục hơn. Thí dụ, chăm sóc đến đời sống của dân chúng, không những về mặt tinh thần, mà còn đặc biệt ở các phương tiện vật chất.

Trên đây chỉ là tóm tắt sự nghiệp tinh thần của Trúc lâm đối với Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, những sự nghiệp khác, như đối với sự tiến bộ của văn học, nghệ thuật, vân vân…..chỉ là những thành quả đương nhiên. Và cũng vì giới hạn của tập Tiểu luận này chỉ nằm trong vòng sự nghiệp tư tưởng, mà những khảo cứu của chúng tôi đã có thể chấm dứt được ở đây.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22240)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15993)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15011)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18911)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14427)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18598)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14382)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13555)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13533)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11802)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13218)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13641)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13917)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16144)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11071)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16433)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11879)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17575)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13684)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12835)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14834)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16365)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12068)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12736)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12873)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12751)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14147)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14090)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16444)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12362)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11288)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11009)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13175)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13876)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13144)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12984)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13478)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12702)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10221)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10207)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13677)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16245)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11944)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12954)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11620)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12647)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10966)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10918)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11861)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12722)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12598)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11293)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant