Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương VI. Kết Luận

27 Tháng Mười 201000:00(Xem: 15547)
Chương VI. Kết Luận

CHƯƠNG VI.
KẾT LUẬN


I. TƯ TƯỞNG TRIẾT LÝ

 

Để tổng kết và mở ra một tầm nhìn có thể có đối với sự nghiệp tư tưởng của Phái Thiền Trúc lâm Yên tử, chúng ta nên ghi nhớ hai tác phẩm trọng yếu đã mở đầu cho phái Thiền này. Đó là bản Ngữ lục của Tuệ trung Thượng Sỹ và Khóa hư lục của Trần Thái Tông. Hai tác phẩm này, một đằng có thể khảo sát trên khía cạnh lý thuyết, và một đằng có thể được chiêm nghiệm trên phương diện thực hành, là những bản tổng kết của một thời gian dài phát triển tư tưởng của Phật giáo Việt nam.

Thượng Sỹ Ngữ lục, một cách nào đó, có thể không mấy có tính chất sáng tạo về mặt tư tưởng Thiền, nhưng quả thực nó là sự kết tinh của Thiền học và tất cả các tông phái Đại thừa khác tại Việt Nam. Nhờ vào hệ thống công án, Thượng Sỹ Ngữ lục đã có thể phát biểu kiến giải của mình một cách thông dong về tất cả các chủ điểm ách yếu trong các khuynh hướng dị biệt của Phật học. Sau Thượng Sỹ ngữ lục, công án vẫn còn được tiếp tục với tinh thần tương tợ, như chúng ta có thể thấy trong Tam tổ đã tạo ra cho công án một vóc dáng lớn, bao hàm cả tư tưởng Tam giáo, không riêng gì Thiền hay Phật giáo.

Từ các công trình đã được thực hiện, chúng ta thấy hình như còn có những vấn đề chưa được khai thác tận căn đề. Nêú lịch sử đã để dành cho Thiền Trúc lâm có các cơ hội thuận thiên hơn, có lẽ chúng ta đã có một trường phái Phật học rất xứng danh. Ở đây, xin ghi nhận một vài vấn đề có thể có mà chưa khai triển.

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHẤT TÂM

Thọat nhìn, chưa ai thấy đây là vấn đề mới mẻ và đặc sắc của Trúc lâm. Trong các lời nói của các người khai sáng nhà Trần, hay khai sáng Thiền Trúc lâm, tâm thường được nhắc đến theo nghĩa rất bình thường. Nhưng cho tới khi Đại chân Viên giác thanh xuất hiện, chân tâm đó mặc nhiên được gắn liền với chân tâm của kinh Lăng nghiêm. Đây chỉ là sự nương tựa cần phải có, nghĩa là cần có một hậu thuẫn từ kinh văn của Phật giáo Đại thừa. Điểm đáng lư ý hơn, là cái chân tâm đã được đồng hóa với Thiên địa chi tâm. Nếu chân tâm có hai tác dụng như thực và diệu dụng phổ biến, thì thiên địa chi tâm cũng biểu hiệu dưới những tác dụng tương giao của âm và dương. Đến chỗ này, thì biểu hiệu cụ thể nhất của tương giao tác dụng đó phải nói là thời tiết. Và như vậy, thời tiết như là nguyên lý hữu hiệu để làm căn bản cho pháp môn tu tập được mô tả trong Khóa hư lục. Đây là sự phản ảnh quá rõ sự phối hợp niềm tin siêu hình bắt nguồn từ Ấn độ với một xã hội liên tục phấn đấu với thiên nhiên để tồn tại.

Nếu chúng ta nói một cách khác, Chân Tâmbản thểthời tiếttác dụng, nhất dịnh chúng ta tưởng tượng ra được chiều hướng phát triển Trúc lâm. Nhưng lịch sử đã không cho phép có sự phát triển rầm rộ về điểm đó. Tuy nhiên, nếu có đủ thì giờ khảo cứu, với những tư tưởng gia lỗi lạc, ngày nay chúng ta vẫn hy vọng làm sống dậy thể tài này với tất cả các sắc thái độc đáo của nó, ít nhất là về mặt học thuật.

TRIẾT LÝ ÂM THANH

Chỉ từ nhà Lê về sau người ta mới thấy quả có một nền triết lý về âm thanh trong Thiền học Trúc lâm. Trước đó, hiệu lực của âm thanh vẫn được coi trọng, đặc biệt trong các lối trì tụng chân ngôn của Mật giáo. Thế nhưng, triết lý về âm thanh như được trình bày trong Đại chân Viên giác thanh lại không có liên hệ gì tới Mật giáo. Nguồn mạch của nó là kinh Thủ-lăng-nghiêm và dịch học Trung hoa. Ngoài sự kiện hình như được gợi hứng từ hạnh nguyện tầm thanh cứu khổ của Bồ tát Quán Thế Âm, triết lý âm thanh trong Đại chân Viên giác thanh còn là một nổ lực cho tư tưởng Tam giáo đồng qui, nhưng chính âm thanh mới là tác dụng kéo tất cả về một mối. Nổ lực này có tầm mức quan trọng đáng kể. Quan trọng nhất, là nhắm giải quyết sự xung đột giữa Phật của Ấn độtruyền thống của Trung hoa mà hậu quả còn dây dưa cho đến Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ là mới nổ lực dự tưởng, và công trình đó không được nhắc nhở, cho nên trong nhất thời chúng ta khó nhận xét đúng mức về chiều hứng phát triển có thể có của nó.

 

 II. TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO

 

Chúng ta đã biết rằng, có những dữ kiện rất sớm trong lịch sử chung của Phật giáo Trung hoa và Việt nam, chứng tỏ rằng đất Giao châu ngày xưa và Bắc kỳ ngày nay là khu vực của thần bí, của tín ngưỡng tôn giáo. Đó là khu vực gây nên những tinh thần trái ngược với khuynh hướng tư tưởng xã hội của Trung hoa ở Bắc phương. Khởi hành từ Trung hoa, càng đi về phía Nam, sắc thái thần bí của tín ngưỡng tôn giáo càng nặng. Cho nên, Giao châu đã là một nơi thu hút những tâm hồn thiên trọng tín ngưỡng tôn giáo của người Trung hoa. Dân bản xứ cố nhiên đã có thiên bẩm tôn giáo đặc biệt.

Trải qua thời gian dài của lịch sử, qua nhiều cuộc cai trị với những chính sách văn hóa của người Trung Hoa, sắc thái thần bítín ngưỡng tôn giáo của giống dân Giao chỉ cũng phải chịu nhiều thay đổi. Cuối cùng, người ta chứng kiến tại đây đã có mặt của một nền tôn giáo thế tục. Nghĩa là một nền tôn giáothần linh cũng có các quan hệ bổn phận với gia đìnhxã hội, ngoài khả năng siêu nhiên của mình. Tín ngưỡng nổi bật nhất là tín ngưỡng Quán Thế Âm.

Về mặt sinh hoạt thực tế, chúng ta khó mà biết nền tín ngưỡng này liên hệ với phái Thiền Trúc lâm như thế nào. Nhưng về mặt tư tưởng thì quả tình Đại chân Viên giác thanh đã nổ lực xây dựng một nền triết học đồng qui cho Tam giáo trên căn bản tín ngưỡng này.

Trước thời Lê, và có lẽ cả thời Trần, tín ngưỡng tôn giáothế lực rất lớn trong xã hội Việt nam. Những phong trào chính trị lớn của lịch sử đã có liên hệ với các hoạt động lấy tín ngưỡng tôn giáo làm phương tiện. Nhưng từ nhà Lê về sau, hai tín ngưỡng Quán Thế Âm xuất hiện như là điểm cao nhất trong quá trình phát triển ý thức tôn giáo của Việt nam, chúng ta thấy gần như không còn có phong trào chính trị nào đích thực có tính chất vận động tôn giáo như trước kia. Tín ngưỡng Quán Thế Âm chỉ giới hạn trong các tương quan xã hội, với một đạo đức không chỉ nói tới quan hệ bổn phận giữa các người sống, mà còn quan hệ với tất cả người sống cũng như người chết, và mức quan hệ còn rộng rãi hơn nữa. Đây là sự kết hợp của tín ngưỡng tôn giáo Đại thừa với trật tự luận lý của Khổng giáo. Cho nên, tín ngưỡng Quán Thế Âm đích thực đã tạo cho tín ngưỡng bình dân Việt Nam hoàn toàn là một nền tín ngưỡng thế tục.

Đây cũng có thể nói là chiều phát triển của Phật giáo trong lòng quần chúng. Tức là, vẫn nỗ lực hướng tới lý tưởng cao cảkinh điển đề ra, nhưng đồng thời cũng không quên các bổn phận rất thông tục theo truyền thống cố hữu của mình.

 

III. SỰ NGHIỆP PHẬT GIÁO CỦA TRÚ LÂM

 

Tư tưởng triết lý, và tín ngưỡng tôn giáo là hai thành quả lớn mà Thiền Trúc lâm đã mang lại cho Phật giáo Việt nam, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, vì chính Trúc lâm đã sáng tạo một lối học và hành đặc sắc trên phương diện triết lý. Nói là gián tiếp, vì tín ngưỡng tôn giáotinh thần cố hữu mà Trúc lâm thừa hưởng, và chỉ đóng góp một phần nào cho sự tiến bộ của nó về sau. Hai phương diện đó là những đóng góp lớn lao của Trúc lâm qua các điểm khác. Các điểm này sẽ được bao gồm trong hai điểm lớn: Lý tưởngthực tế.

Về phương diện lý tưởng, Trúc lâm quả tình đã kết hợp khéo léo giữa lý tưởng Quốc giaPhật đạo. Sáo ngữ ngày nay thường nói Phật giáo và Dân tộc. Đây không chỉ cách nói tuyên truyền nhất thời với một hậu ý chính trị nào đó. Lý tưởng Quốc giaPhật đạo đã có mặt trước cả đời nhà Trần, như chúng ta chứng kiến trong các cuộc vận động cho quyền tự chủý thức dân tộc của các Thiền sư trước thời Lý. Cho đến đời nhà Trần, lý tưởng này đã được khẳng định nhiều lần do chính miệng của những người sáng lập triều đại nhà Trần.

Nếu xét kỹ, có lẽ chúng ta phải thấy rằng lý tưởng Quốc giaPhật đạo vốn là khía cạnh của lý tưởng tôn giáo đại đồng. Đó là một nền tín ngưỡng lấy niềm tin nơi con người làm đối tượng cứu cánh, không giới hạn vào biên giới quốc gia. Tư tưởng Tam giáo đồng qui thực sự cũng được hỗ trợ bởi một lý tưởng tôn giáo như thế.

Về mặt thực tế, điểm phải kể trước nhất là các nhà khai sáng Trúc lâm đã tạo cho Phật giáo Việt nam kể từ đây trở đi mang nhiều sắc thái thế tục hơn. Một phần, vì những nhà lãnh đạo tinh thần thời đó là cư sĩ. Vừa có thẩm quyền về đạo cũng như về đời, nên ảnh hưởng về thái độ thể hiện giáo lý của Phật thực tế không phải là nhỏ. Phật giáo thế tục, tức Phật giáo bận tâm nhiều đến các công tác thế tục hơn. Thí dụ, chăm sóc đến đời sống của dân chúng, không những về mặt tinh thần, mà còn đặc biệt ở các phương tiện vật chất.

Trên đây chỉ là tóm tắt sự nghiệp tinh thần của Trúc lâm đối với Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, những sự nghiệp khác, như đối với sự tiến bộ của văn học, nghệ thuật, vân vân…..chỉ là những thành quả đương nhiên. Và cũng vì giới hạn của tập Tiểu luận này chỉ nằm trong vòng sự nghiệp tư tưởng, mà những khảo cứu của chúng tôi đã có thể chấm dứt được ở đây.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12496)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14093)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10842)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11168)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11977)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13103)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11319)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12889)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13031)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11599)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17864)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11407)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11465)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18954)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12523)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13124)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11794)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11681)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12735)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12618)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13930)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12910)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13271)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12738)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12663)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11711)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11703)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12314)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11946)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11977)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15051)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16093)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12860)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12208)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13136)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13221)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12473)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11796)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19825)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11242)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11074)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10953)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10019)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11730)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant