Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cho và nhận - Một Phương Pháp Thực Tiễn Hướng Đến Từ Ái và Bi Mẫn

13 Tháng Chín 201100:00(Xem: 28555)
Cho và nhận - Một Phương Pháp Thực Tiễn Hướng Đến Từ Ái và Bi Mẫn

CHO VÀ NHẬN
Một Phương Pháp Thực Tiễn Hướng Đến Từ Ái và Bi Mẫn
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Geshe Thupten Jinpa
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 31/08/2011

blankTừ biđiều kỳ diệu và quý giá nhất. Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành. Đôi khi tôi tranh luận với bạn bè những người tin rằng bản chất con ngườitiêu cực và hung hăng hơn. Tôi cải rằng nếu quý vị nghiên cứu về cấu trúc của thân thể con người, quý vị sẽ thấy rằng nó có họ hàng với những chủng loại động vật có vú mà lối sống của chúng là hiền lành hay hòa bình hơn. Đôi khi tôi nửa đùa nửa thật rằng đôi tay chúng ta được cấu thành trong một phương thức mà chúng thuận tiện để ôm ấp hơn thay vì đánh đấm. Nếu đôi tay chúng ta chính yếu dự định cho đánh đấm, thế thì những ngón tay xinh xắn sẽ không cần thiết. Thí dụ, nếu những ngón tay được để cho mở rộng, những võ sĩ không thể đánh đấm một cách mạnh mẽ được, vì thế họ phải nắm những bàn tay lại như quả đấm. Do vậy, tôi nghĩ rằng điều ấy có nghĩa rằng cấu trúc thân thể căn bản của chúng ta tạo nên một bản chất tự nhiên từ bi hay hiền lành.

Nếu chúng ta nhìn vào những mối quan hệ, hôn nhân và thụ thai là rất quan trọng. Như tôi đã nói trước đây, hôn nhân không nên được căn cứ trên tình yêu mù quáng hay một loại yêu đương lãng mạng cuồng si; nó nên căn cứ trên kiến thức về nhau và một sự thấu hiểu rằng chúng ta thích hợp để sống với nhau. Hôn nhân không phải cho một sự thỏa mãn tạm thời, mà cho một loại ý nghĩa nào đấy của trách nhiệm. Đấy là một tình yêu chân thành để làm nền tảng cho hôn nhân.

Một sự thụ thai thích đáng cho một đứa trẻ xảy ra trong loại thái độ đạo đức hay tinh thần ấy. Trong khi đứa trẻ ở trong bụng mẹ, tâm tư tĩnh lặng của bà mẹ có một ảnh hưởng rất tích cực đối với đứa trẻ chưa sinh, theo một nhà khoa học. Nếu thể trạng tinh thần của bà mẹ là tiêu cực, thí dụ nếu bà ta chán nản hay giận dữ, thế thì điều đó rất tại hại cho sự phát triển sức khỏe của đứa trẻ chưa sinh. Một nhà khoa học đã nói với tôi rằng trong vài tuần lễ đầu sau khi sinh là thời gian quan trọng nhất, vì trong thời gian ấy não bộ đứa trẻ đang tăng trưởng. Trong thời gian ấy, sự xúc chạm của bà mẹ hay những người hành động như một bà mẹ là quan yếu. Điều này cho thấy rằng, mặc dù đứa trẻ có thể không nhận ra ai là ai, nó thế nào ấy cần tác động tình cảm thân thể của người khác. Không có điều ấy, sẽ rất tai hại cho việc phát triển lành mạnh não bộ của đứa trẻ.

Sau khi sinh, hành động đầu tiên của bà mẹ là cho con bú sữa. Nếu bà mẹ thiếu vắng tình cảm hay cảm giác ân cần cho đứa con, thì sữa sẽ không chảy ra. Nếu bà mẹ nuôi con của bà với cảm giác hiền lành đối với đứa trẻ, mặc cho bệnh tật hay đau đớn của riêng bà, như một kết quả sữa vẫn tuôn chảy tự do. Loại thái độ này như một trân bảo quý giá. Hơn thế nữa, nếu từ phía khác, nếu đứa trẻ thiếu một loại cảm giác gần gũi đối với bà mẹ, nó có thể không bú. Điều này cho thấy hành động tình cảm của cả hai phía là kỳ diệu như thế nào. Đấy là sự khởi đầu của đời sống chúng ta.

Tương tự thế với giáo dục, kinh nghiệm của tôi là những bài học nào chúng ta học từ những vị thầy không chỉ tốt lành mà cũng biểu lộ tình cảm cho học trò, đi sâu vào trong tâm tư chúng ta. Bài học từ những loại giáo viên khác có thể không được như thế. Mặc dù chúng ta có thể bị thúc ép để học hành và có thể sợ hãi giáo viên, những bài học có thể không thấm vào. Tùy thuộc nhiều vào tình cảm của giáo viên.

Giống như thế, khi chúng ta đi đến một nhà thương, bất chấp phẩm chất của bác sĩ, nếu bác sĩ biểu lộ cảm giác chân thànhquan tâm sâu sắc cho chúng ta, và nếu bác sĩ mĩm cười, thì chúng ta cảm thấy an lòng, okay. Nhưng nếu bác sĩ chỉ biểu lộ một chút tình cảm con người, thế thì ngay cả bác sĩ ấy có thể là một chuyên gia vĩ đại, chúng ta có thể cảm thấy không bảo đảmlo âu. Đây là bản chất con người.

Cuối cùng, chúng ta có thể phản chiếu trên đời sống của chúng ta. Khi chúng ta còn trẻ và lúc chúng ta về già, chúng ta lệ thuộc một cách sâu đậm trên tình cảm của những người khác. Giữa những tầng bậc này, chúng ta thường cảm thấy rằng có thể làm mọi thứ mà không có sự giúp đở của những người khác và tình cảm của người khác đơn giản là không quan trọng. Nhưng tại tầng bậc này, tôi nghĩ thật quan trọng để giữ tình cảm sâu sắc của con người. Khi người ta ở trong một thị tứ hay thành phố lớn cảm thấy cô đơn, nhưng đúng hơn là người ta thiếu vắng tình cảm con người. Như một kết quả của điều này, sức khỏe tinh thần của họ cuối cùng trở nên rất nghèo nàn. Mặt khác, nếu những người đó lớn lên trong một không khí của tình cảm con người sẽ có một sự phát triển tích cựchiền lành hơn trong thân thể, tâm tư và thái độ của họ. Những đứa trẻ lớn lên thiếu vắng không khí tình cảm nhân bản ấy thường có những thái độ tiêu cực hơn. Điều này đã biểu lộ rất rõ bản chất tự nhiên của loài người. Cũng thế, như tôi đã đề cập, thân thể con người biết thưởng thức sự hòa bình của tâm thức. Những thứ đang quấy rầy chúng ta có một tác động rất tệ hại đối với sức khỏe của chúng ta. Điều này cho thấy toàn bộ cấu trúc sức khỏe của chúng ta phù hợp với không khí tình cảm của con người. Do thế, khả năng cho từ bi là ở đấy. Vấn đề duy nhấtchúng tanhận ra điều này và áp dụng nó hay không?

Lòng từ ái và bi mẫn của chúng ta đối với bè bạn trong nhiều trường hợp thật sự là dính mắc. Cảm nhận này không phải căn cứ trên nhận thức rằng tất cả chúng sinh có quyền bình đẳng để hạnh phúc và vượt thắng khổ đau. Thay vì thế, nó căn cứ trên ý tưởng rằng điều gì đấy là "của tôi", "bạn tôi", hay điều gì đấy tốt cho "tôi". Đấy là dính mắc. Vì vậy, khi thái độ của người ấy đối với chúng ta thay đổi, cảm giác của chúng ta về sự gần gũi lập tức biến mất. Với một cách khác, chúng ta phát triển một loại quan tâm bất chấp thái độ của người khác đối với chúng ta, một cách đơn giản bởi vì người ấy cũng là một con người đồng loại và có mọi quyền để vượt thắng khổ đau. Cho dù người ấy giữ vị thế trung lập hay ngay cả trở thành kẻ thù của chúng ta, sự quan tâm của chúng ta phải duy trì do bởi thực trạng [như một con người] của người ấy. Đó là sự khác biệt chính yếu. Lòng bi mẫn chân thànhlành mạnh hơn; nó không thành kiến, và nó được căn cứ trên lý trí. Trái lại, dính mắc là hẹp hòi và thiên vị.

Thật sự, từ bi chân thật và dính mắc là đối nghịch với nhau. Theo sự thực hành Đạo Phật, để phát triển lòng từ bi chân thật, đầu tiên chúng ta phải thực hành thiền quán về bình đẳnghành xả, buông xả khỏi những người thật thân cận với mình. Sau đó, chúng ta phải loại trừ những cảm giác tiêu cực đối với kẻ thù của chúng ta. Tất cả chúng sinh phải được xem như bình đẳng. Trên căn bản ấy, chúng ta có thể dần dần phát triển lòng từ bi chân thành cho tất cả. Phải nói rằng lòng từ bi chân thành không giống như sự thương hại hay cảm giác rằng những người khác thế nào ấy thấp hơn chính mình. Đúng hơn, với lòng từ bi chân thành, chúng ta nhìn những người khác là quan trọng hơn chính mình.

Như tôi đã chỉ ra trước đây, nhằm để phát sinh lòng từ bi chân thật, trước tiên nhất chúng ta phải trải nghiệm sự tu tập hành xả. Điều này trở nên rất quan trọng, bởi vì không có một cảm giác hành xả đối với tất cả, cảm nhận của chúng ta đối với người khác sẽ bị thiên vị. Vì thế bây giờ, tôi sẽ cho quý vị một thí dụ ngắn gọn về việc rèn luyện thiền quán trên sự phát triển hành xả. Thứ nhất, chúng ta phải nghĩ về một nhóm nhỏ những người chúng ta biết, chẳng hạn như bạn bè và người thân của chúng ta, đối với những người chúng ta có sự luyến ái (dính mắc). Thứ hai, chúng ta nên nghĩ về những người nào đấy mà đối với họ chúng ta cảm thấy hòan toàn dửng dưng. Và thứ ba, hãy nghĩ về một số người mà chúng ta không thích. Một khi chúng ta đã hình dung những người khác nhau này, chúng ta phải cố gắng để cho tâm tư chúng ta thâm nhập vào thể trạng tự nhiên của nó và để thấy nó đáp ứng một cách tự nhiên như thế nào đến một sự gặp gở với những người này. Chúng ta sẽ lưu ý rằng sự phản ứng tự nhiên của chúng ta sẽ là dính mắc đối với bạn bè chúng ta, không thích đối với những người chúng ta xem như kẻ thù, và hoàn toàn dửng dưng đối với những người chúng ta cho là trung lập. Rồi thì chúng ta phải cố gắng để tự hỏi mình. Chúng ta phải so sánh những ảnh hưởng của hai thái độ đối nghịch mà chúng ta có đối với bạn bè và kẻ thù của chúng ta, và để thấy tại sao chúng ta có những tình trạng thay đổi bất thường của tâm tư đối với những nhóm người khác biệt này. Chúng ta phải thấy tác động nào mà những phản ứng như vậy có trong tâm tư chúng tacố gắng để thấy sự vô ích của việc liên hệ với họ trong một thái độ cực đoan như vậy. Tôi đã thảo luận những sự thuận và nghịch của việc dung dưỡng thù hận và phát triển giận dữ đối với những kẻ thù, và tôi cũng đã nói một ít về những nhược điểm của việc dính mắc cực đoan đối với bạn bè, v.v... Chúng ta phải quán chiếu trên điều này và sau đó cố gắng để giảm thiểu tối đa cảm xúc mạnh mẽ của chúng ta đối với hai nhóm người đối nghịch này. Rồi thì quan trọng nhất là, chúng ta phải quán chiếu trên nền tảng bình đẳng giữa chính mình và tất cả những chúng sinh khác. Giống như chúng ta có khao khát bản năng tự nhiên cho hạnh phúc và vượt thắng khổ đau, và tất cả những chúng sinh khác cũng vậy; giống như chúng ta có quyền để hoàn tất nguyện vọng bẩm sinh này, và tất cả những chúng sinh khác cũng như vậy. Vì vậy trên nền tảng đúng đắn nào mà chúng ta phân biệt?

Nếu chúng ta nhìn vào nhân loại như một tổng thể, thì chúng ta là những động vật xã hội. Hơn thế nữa, những cấu trúc của kinh tế, giáo dục, v.v... hiện đại, cho thấy rõ rằng thế giới đã trở nên một nơi nhỏ bé hơn, và vì thế chúng ta lệ thuộc vào nhau hơn. Dưới những hoàn cảnh như vậy, tôi nghĩ chọn lựa duy nhất là sống và làm việc với nhau một cách hòa hiệp, và giữ trong tâm tư chúng ta mối quan tâm cho toàn thể nhân loại. Đấy là quan điểm và cung cách duy nhấtchúng ta phải tiếp nhận cho sự sống còn của chúng ta.

Do bản chất, đặc biệt như một con người, những quan tâm của tôi không riêng biệt với những người khác. Sự hạnh phúc của tôi lệ thuộc trên hạnh phúc của những người khác. Vì vậy, khi tôi thấy những người hạnh phúc, tự động tôi cũng cảm thấy hạnh phúc hơn một ít so với khi tôi thấy những người ở trong một tình cảnh khó khăn. Thí dụ, khi chúng ta thấy những bức ảnh ở trên truyền hình, những người đói khát ở Somali, kể cả những người già, và những đứa trẻ, tự nhiên chúng ta cảm thấy buồn bả, bất chấp sự buồn đau ấy có thể đưa đến một loại hành động giúp đỡ nào đấy hay không.

Hơn thế nữa, trong đời sống hàng ngày, bây giờ chúng ta sử dụng nhiều tiện nghi thuận lợi, kể cả những thứ như máy điều hòa không khí trong nhà. Những thứ này hay những tiện nghi này trở nên có thể hiện thực của thực tế, không phải do bởi chính chúng ta, mà do bởi sự liên hệ trực tiếp hay gián tiếp của nhiều người. Mọi thứ đến với nhau. Không thể trở lại lối sống một vài thế kỷ trước, khi chúng ta chỉ lệ thuộc trên những khí cụ đơn giản, chứ không phải tất cả những máy móc này. Rất rõ ràng đối với chúng ta rằng bây giờ chúng ta đang thụ hưởng những sản phẩm lao động của nhiều người. Trong 24 giờ đồng hồ chúng ta ngủ trên giường - nhiều người đang liên hệ với điều ấy - và trong việc chuẩn bị thức ăn cho chúng ta cũng thế, đặc biệt cho những người không ăn chay. Tiếng tăm rõ ràng cũng là sản phẩm của những người khác - không có sự hiện diện của những người khác, khái niệm danh thơm tiếng tốt thậm chí sẽ không có ý nghĩa gì. Cũng thế, sự quan tâm tình trạng kinh tế của Âu Châu tùy thuộc trên sự quan tâm của Mỹ Châu và sự quan tâm của Tây Âu tùy thuộc trên sự quan tâm của Đông Âu. Mỗi châu lục lệ thuộc sâu xa trên những châu lục khác; đấy là một thực tế. Vì nhiều thứ mà chúng ta khao khát, chẳng hạn như giàu sang, danh tiếng, v.v..., không thể hình thành mà không có hành vi hay sự tham gia gián tiếp và sự hợp tác của nhiều người khác.

Do vậy, vì chúng ta có quyền bình đẳng để hạnh phúc và vì tất cả chúng ta liên hệ với nhau, bất kể một cá nhân là quan trọng như thế nào, một cách hợp lý, sự quan tâm của năm tỉ người người trên hành tinh này là quan trọng hơn một người đơn độc. Bằng việc suy nghĩ qua những dòng này, chúng ta cuối cùng có thể phát triển một ý thức trách nhiệm toàn cầu. Những vấn nạn môi trường hiện đại, chẳng hạn như sự suy thoái của tầng ozone, rõ ràng cũng cho chúng ta thấy nhu cầu cho sự hợp tác toàn cầu. Dường như rằng với sự phát triển, toàn bộ thế giới đã trở nên nhỏ bé hơn, nhưng tâm thức con người vẫn tụt hậu đằng sau.

Đây không phải là vấn đề của sự thực hành tôn giáo, mà là một câu hỏi cho tương lai của nhân loại. Loại thái độ rộng rãi hơn hay vị tha hơn là rất liên hệ trong thế giới ngày nay. Nếu chúng ta nhìn vào hoàn cảnh từ những khía cạnh đa dạng hơn, chẳng hạn như sự phức tạp và sự liên hệ nội tại tự nhiên của sự tồn tại hiện đại, sau đó chúng ta sẽ dần dần chú ý một sự thay đổi trong quan điểm của chúng ta, vì thế khi chúng ta nói "người khác" và khi chúng ta nghĩ về người khác, chúng ta sẽ không còn loại bỏ họ như không liên hệ với chúng ta. Chúng ta không còn cảm thấy dửng dưng nữa.

Nếu chúng ta chỉ nghĩ về riêng mình mà thôi, nếu chúng ta quên lãng những quyền và sự cát tường của người khác, hay tệ hại hơn, nếu chúng ta bóc lột kẻ khác, căn bản chính chúng ta sẽ thua thiệt. Chúng ta sẽ không còn bạn nữa, những người biểu lộ cho sự cát tường của chúng ta. Hơn thế nữa, nếu thảm họa xảy đến cho chúng ta, thay vì cảm thấy quan tâm, người ta có thể thậm chí mừng thầm. Trái lại, nếu một cá nhân từ bivị tha, và có những quan tâm đến người khác trong tâm hồn, rồi thì bất chấp, người ấy biết nhiều người hay không, bất cứ nơi nào người ấy đi đến, người ấy sẽ lập tức có bạn. Và khi người ấy đối diện với tai họa, sẽ có nhiều người đến để giúp đở người ấy.

Một tình bạn chân thật phát triển căn cứ trên tình cảm chân thành của con người, không phải trên tiền bạc hay quyền lực. Dĩ nhiên, qua sự giàu cóquyền lực của mình, nhiều người hơn có thể tiếp cận chúng ta với những nụ cười rộng mở hay quà cáp. Nhưng trong sâu thẳm, những người này không phải là bạn bè thật sự của chúng ta; đây là những người bạn của sự giàu có hay quyền lực của chúng taCho đến khi nào sự vận may vẫn còn với chúng ta những người này sẽ thường tiếp cận với chúng ta. Nhưng khi chúng ta hết thời, họ sẽ không còn ở đó nữa. Với loại bè bạn này, không ai sẽ thực hiện một nổ lực chân thành để giúp chúng ta nếu chúng ta cần đến. Đấy là sự thật.

Tình bạn chân thành nhân bản là trên căn bản của tình cảm nhân loại, bất chấp vị thế của chúng ta. Do vậy, càng biểu lộ sự quan tâm đến lợi íchquyền lợi của kẻ khác, chúng ta càng là một người bạn chân thành. Càng cởi mở và chân thành, thế thì căn bản, lợi ích hơn sẽ đến với chúng ta. Nếu chúng ta quên lãng hay không quan tâm người khác, rồi thì cuối cùng chúng ta sẽ đánh mất lợi ích của mình. Vì vậy, đôi khi tôi nói với mọi người, nếu chúng ta thật sự vị kỷ, thế thì vị kỷ thông tuệ tốt hơnvị kỷ si mê và đầu óc hẹp hòi.

Đối với những hành giả Phật Giáo, sự phát triển tuệ trí cũng rất quan trọng - và ở đây tôi muốn nói tuệ trí thực chứng tính không, căn bản tự nhiên của thực tại. Thân chứng về tính không cho chúng ta tối thiểu một loại ý nghĩa tích cực nào đấy về sự ngừng dứt. Một khi chúng ta có một loại cảm nhận nào đấy cho khả năng của ngừng dứt (diệt đế), sau đó sẽ trở nên rõ ràng rằng khổ đau không phải là cuối cùng và rằng có một sự thay đổi. Nếu có một sự thay đổi, thế thì đáng để thực hiện một nỗ lực. Nếu chỉ có hai trong Bốn Chân Lý Cao Quý của Đức Phật hiện hữu - khổ đau và nguyên nhân đau khổ - thì không có ý nghĩa gì nhiều. Nhưng hai chân lý kia, kể cả ngừng dứt, chỉ tới một phương cách thay đổi của tồn tại. Có một khả năng của sự chấm dứt khổ đau. Vì thế đáng thực tập để nhận ra bản chất của khổ đau. Do vậy, tuệ trí là cực kỳ quan trọng trong việc gia tăng từ bi một cách vô hạn.

Thế nên, đấy là việc chúng ta tiến hành trong sự thực tập Đạo Phật như thế nào: có một sự áp dụng năng lực của tuệ trí, sử dụng thông minh, và một sự thấu hiểu về bản chất của thực tại, cùng với phương tiện thiện xảo của việc phát sinh từ bi. Tôi nghĩ rằng trong đời sống hàng ngày của chúng ta và trong tất cả những loại hoạt động chuyên môn của chúng ta, chúng ta có thể sử dụng động cơ từ bi này.

Dĩ nhiên, trong lĩnh vực giáo dục, không nghi ngờ gì động cơ từ bi là quan trọng và thích đáng. Bất chấp chúng ta là người có tín ngưỡng hay không, từ bi cho đời sống sinh viên hay tương lai, không chỉ cho những cuộc kiểm tra, thi cử của chúng, mà hãy làm cho hành vi của chúng ta như một giáo viên [với từ bi] sẽ hiệu quả hơn. Với động cơ ấy, tôi nghĩ học trò của quý vị sẽ nhớ quý vị suốt cả cuộc đời.

Tương tự thế, trong lĩnh vực sức khỏe, có một thành ngữ Tây Tạng nói rằng hiệu quả của vấn đề chửa trị tùy thuộc trên trái tim nồng ấm của vị thầy thuốc như thế nào. Do bởi thành ngữ này, khi những việc chạy chửa từ một vị bác sĩ nào đấy không có hiệu quả, người ta phiền trách đặc tính của bác sĩ, suy đoán rằng có lẽ vị thầy thuốc ấy không phải là một người ân cần. Vị bác sĩ khốn khổ ấy đôi khi phải nhận một cái danh hiệu rất tệ! Vậy thì trên lĩnh vực y dược không nghi ngờ gì rằng động cơ từ bi là điều gì đấy rất thích đáng.

Tôi nghĩ điều này cũng là trường hợp của những luật sư và chính trị gia. Nếu những chính trị gialuật sư có động cơ từ bi hơn thế thì sẽ ít có tai tiếng hơn. Và như một kết quả toàn bộ xã hội sẽ được hòa bình hơn. Tôi nghĩ hành vi chính trị sẽ trở nên hiệu quả hơn và được tôn trọng hơn.

Cuối cùng, trong quan điểm của tôi, điều tệ hại nhất là chiến tranh. Nhưng thậm chí chiến tranh với tình cảm nhân bản và với từ bi nhân ái sẽ ít tàn phá hơn nhiều. Chiến tranh hoàn toàn cơ giới hóa mà không có cảm giác nhân tính là tệ hại hơn.

Cũng thế, tôi nghĩ từ bi và một ý thức trách nhiệm cũng có thể đi vào lãnh vực của khoa học và kỹ thuật. Dĩ nhiên, từ một quan điểm khoa học thuần túy, những vũ khí kinh khiếp như bom hạt nhân là những thành tựu nổi bật. Nhưng chúng ta có thể nói rằng đây là những thứ tiêu cực bởi vì chúng mang đến những khổ đau mênh mông cho thế giới. Do vậy, nếu chúng ta không đánh giá nỗi đớn đau của nhân sinh, cảm giác của nhân loại, và lòng từ bi nhân ái, thì sẽ không có ranh giới giữa đúng và sai. Thế nên, từ bi nhân ái có thể xúc chạm mọi nơi.

Tôi thấy hơi khó khắn để áp dụng nguyên tắc từ bi này vào lãnh vực kinh tế. Nhưng các kinh tế gia là những con người, và dĩ nhiên, họ cũng cần tình cảm con người mà không có họ cũng sẽ khổ đau. Tuy nhiên, nếu quý vị chỉ nghĩ đến lợi nhuận, bất chấp những hậu quả, thế thì những tay đầu nậu ma túy không phải là sai, bởi vì, từ quan điểm kinh tế, họ cũng làm nên nên vô số lợi nhuận. Nhưng bởi vì điều này là rất tổn hại cho xã hội và cho cộng đồng, chúng ta gọi đó là sai và mệnh danh những người đó là tội phạm. Nếu đúng là như vậy, thế thì tôi nghĩ những tay buôn bán vũ khí cũng ở trong cùng đặc trưng ấy. Thương vụ vũ khí là tương đồng với hiểm họa và vô trách nhiệm.

Vì vậy, tôi nghĩ vì những lý do này, từ bi nhân ái, hay những gì đôi khi gọi là "tình cảm loài người", là nhân tố then chốt cho tất cả giao dịch của con người. Giống như chúng ta thấy rằng với lòng bàn tay tất cả năm ngón tay đều trở nên hữu dụng, nếu những ngón tay không được nối kết với bàn tay chúng sẽ vô dụng. Tương tự như vậy, mỗi hành động của con người không có cảm giác nhân bản sẽ trở nên nguy hiểm. Với cảm giác nhân tình và sự đánh giá cao những giá trị nhân bản, tất cả những hành động của nhân loại sẽ trở nên xây dựng.

Ngay cả tôn giáo, đáng lý là tốt lành cho nhân loại, có thể trở thành kinh tởm nếu khôngthái độ từ bi nhân ái căn bản. Bất hạnh thay, thậm chí bây giờ có những rắc rối hoàn toàn vì những tôn giáo khác nhau. Do vậy, từ bi nhân ái là điều gì đấy nền tảng. Nếu từ bi nhân bản ở đó thì tất cả những hành vi của nhân loại sẽ trở nên hữu ích hơn.

Nói một cách tổng quát, tôi có ấn tượng rằng trong giáo dục và một có lãnh vực khác có một sự lãng quên nào đó đối với vấn đề động cơ nhân bản. Có lẽ, vào thời xưa, tôn giáo đáng lý mang lấy trách nhiệm này, nhưng bây giờ trong cộng đồng, một cách tổng quát tôn giáo dường như hơi lỗi thời một chút, do vậy người ta đánh mất sự hấp dẫn trong tôn giáo và trong những giá trị sâu xa của con người. Tuy nhiên, tôi nghĩ những điều này nên là hai thứ riêng biệt. Nếu chúng ta tôn trọng hay thích thú trong tôn giáo, điều đó là tốt lành. Nhưng nếu chúng ta không còn hấp dẫn với tôn giáo, thì chúng ta không nên quên lãng tầm quan trọng của những giá trị nhân bản sâu sắc.

Có những tác động phụ đa dạng bên cạnh việc làm nổi bật cảm nhận từ bi của chúng ta. Một trong những điều ấy là năng lực của từ bi càng lớn, khả năng hồi phục của chúng ta càng nhanh trong khi đối diện với những thử thách gay gonăng lực của chúng ta để chuyển hóa chúng thành những điều kiện tích cực hơn. Một hình thức của thực tập dường như khá hiệu quả được thấy trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát, một tác phẩm cổ điển của Đạo Phật. Trong sự thực tập này, chúng ta quán tưởng bản ngã cũ kỹ của chúng ta, hóa thân của vị kỷ, tự cho mình là trung tâm, v.v..., và rồi quán tưởng một nhóm người đại diện cho những tụ hội của các chúng sinh khác. Rồi thì chúng ta áp dụng quan điểm của người thứ ba như một người quán sát không thiên vịthực hiện một sự lương định so sánh giá trị, những quan tâm, và rồi đến tầm quan trọng của hai nhóm này. Cũng cố gắng để phản chiếu trên những khiếm khuyết hoàn toàn rõ ràng đến sự cát tường của những chúng sinh khác, v.v..., và những gì bản ngã cũ kỹ ấy đã đạt được rồi như một kết quả của việc hướng đến một lối sống như vậy. Rồi thì quán chiếu trên những chúng sinh khác và để thấy tầm quan trọng của sự cát tường của họ là như thế nào, nhu cầu để phụng sự họ, v.v..., và để thấy những gì chúng ta như người thứ ba trung lập quán sát, sẽ kết luận những quan tâmcát tường của ai là quan trọng hơn. Chúng ta sẽ bắt đầu cảm thấy có chiều hướng thiên về vô số những người khác.

Tôi cũng nghĩ rằng năng lực của thái độ vị tha đối với chúng sinh càng lớn, chúng ta càng trở nên can đảm hơn. Chúng ta càng can đảm hơn, thì xu hướng ngã lòng và mất hy vọng càng giảm đi. Do vậy, từ bi cũng là một cội nguồn của sức mạnh nội tại. Với sức mạnh nội tại gia tăng thì có thể phát triển một quyết tâm vững vàng và với quyết tâm thì sẽ có một cơ hội lớn cho thành công, bất chấp chướng ngại là có thể là gì. Trái lại, nếu chúng ta cảm thấy do dự, sợ hãi, và thiếu vắng tự tin, thế thì chúng ta thường gia tăng thái độ bi quan. Tôi cho rằng đó là hạt giống thật sự của thất bại. Với một thái độ bi quan chúng ta không thể hoàn thành ngay cả những việc mà chúng ta có thể dễ dàng đạt được. Trái lại, ngay cả nếu điều gì đấy khó khăn để đạt đến, nếu chúng ta có một quyết tâm không gì lay chuyển cuối cùng sẽ có khả năng để đạt được. Do vậy, ngay cả trong những ý nghĩa quy ước, từ bi là rất quan trọng cho một tương lai thành công.

Như tôi đã chỉ ra trước đây, tùy thuộc trên cấp độ tuệ trí, sẽ có những trình độ từ bi khác nhau, chẳng hạn như từ bi được thúc đẩy bởi tuệ giác nội quán chân thành vào trong cơ bản tự nhiên của thực tại, từ bi được thúc đẩy bởi một sự đánh giá đúng bản chất vô thường của hiện hữu, và từ bi được thúc đẩy bởi thức tỉnh về khổ đau của những chúng sinh khác. Cấp độ tuệ trí của chúng ta, hay chiều sâu của tuệ giác nội quán vào trong bản chất của thực tại, quyết định trình độ của từ bichúng ta sẽ trải nghiệm. Theo quan điểm Phật Giáo, từ bi với tuệ trí là rất quan yếu. Từ bi như một người rất trung thựctuệ trí như một người rất tài ba - nếu chúng ta phối hợp cả hai lại, thế thì kết quả là điều gì đấy rất hiệu quả.

Tôi thấy bi mẫn, từ ái, và tha thứ như nền tảng chung cho tất cả những tôn giáo khác nhau, bất chấp truyền thống hay triết lý. Mặc dù có những khác biệt giữa những ý tưởng của các tôn giáo khác nhau, chẳng hạn như sự chấp nhận một Đấng Tạo Hóa Toàn Năng, nhưng mỗi tôn giáo đều cùng truyền trao một thông điệp: hãy là một người với trái tim nồng ấm. Tất mọi tôn giáo đều nhấn mạnh tầm quan trọng của từ bitha thứ. Vào thời cổ xưa, khi những tôn giáo khác nhau cư trú trong những vùng khác nhau và ít có sự giao tiếp hơn với nhau, nên không có nhu cầu cho đa nguyên trong những truyền thống tôn giáo khác nhau. Nhưng ngày nay, thế giới đã trở nên nhỏ bé hơn nhiều, vì thế giáo tiếp giữa những tôn giáo khác nhau đã trở nên rất mạnh mẽ. Dưới những hoàn cảnh như vậy, tôi nghĩ đa nguyên trong những niềm tin tôn giáo là rất cần yếu. Một khi chúng ta thấy giá trị nhân bản qua nhiều thế kỷ của những tôn giáo khác nhau này một cách không thành kiến, nghiên cứu một cách khách quan thế thì sẽ có nhiều lý do để chấp nhận hay để tôn trọng tất cả những tôn giáo khác nhau. Cuối cùng, trong nhân loại có rất nhiều khuynh hướng tinh thần khác nhau, nên đơn giản rằng một tôn giáo, bất kể là nó thậm thâm như thế nào cũng không thể thỏa mãn tất cả những con người đa dạng như thế.

Thí dụ, bây giờ, thay vì một sự phân chia những truyền thống tôn giáo như thế, đại đa số vẫn tiếp tục không bị hấp dẫn bởi tôn giáoTrong đời sống của năm tỉ người, tôi tin chỉ có khoảng một tỉ người là những người tin tưởng tôn giáo thật sự. Trong khi nhiều người nói, "Gia đình tôi vốn là Ki Tô Giáo, Hồi Giáo hay Phật Giáo, nên tôi là Ki Tô Hữu, theo Hồi Giáo hay là Phật tử," những người tín ngưỡng thật sự, trong đời sống hằng ngày của họ và đặc biệt khi một trường hợp khó khăn nào đó sinh khởi, nhận ra rằng họ là những thành viên của một tôn giáo đặc thù nào đấy. Thí dụ, tôi muốn đề cập đến những ai nói rằng, "tôi là Ki Tô hữu", và trong thời gian ấy nhớ đến Thượng Đế, cầu nguyện Thượng Đế, và không để hiện ra những cảm xúc tiêu cực. Đối với những người tín ngưỡng chân thật, tôi nghĩ có lẽ có ít hơn một tỉ người. Còn lại nhân loại, ít hơn bốn tỉ người, vẫn là ở trong những người không tín ngưỡng thật nghĩa. Vì vậy một tôn giáo rõ ràng không thể thỏa mãn toàn thể nhân loại. Dưới những hoàn cảnh như vậy, một sự đa nguyên tôn giáo thật sự cần thiết và hữu ích, và do thế, điều duy nhất có thể cảm nhận được là tất cả các tôn giáo khác nhau phối hợp hành động và sống hòa hiệp với nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Đã có những phát triển tích cực gần đây và tôi đã chú ý rằng những mối quan hệ gần gũi đang hình thành giữa những tôn giáo khác nhau.

Vì vậy, có quán chiếu trên những khiếm khuyết về một cung cách vị kỷ của tư tưởngđời sống, và cũng đã phản chiếu trên những hậu quả tích cực của việc tỉnh thức về sự cát tường của những chúng sinh khác cùng hành động cho lợi ích của họ, cũng như tin chắc với điều này, thế thì trong thiền quán Đạo Phật có một loại rèn luyện đặc biệt được biết như "sự thực tập Cho và Nhận". Điều này đặc biệt được thiết lập để làm nổi bật năng lực từ ái và bi mẫn của chúng ta đối với những chúng sinh khác. Một cách căn bảnliên hệ đến sự quán tưởng việc tự lãnh lấy tất cả những trải nghiệm khổ sở, đớn đau, tiêu cực, và không ai muốn của những chúng sinh khác. Chúng ta quán tưởng lãnh lấy những điều này về cho chính mình và ban cho hay chia sẻ với những người khác các phẩm chất tích cực của chính mình, chẳng hạn như những thể trạng đạo đức của tâm, năng lượng tích cực của chúng ta, sự giàu sang của chúng ta, niềm hạnh phúc của chúng ta, v.v... Một hình thức rèn luyện như vậy, mặc dù không thể kết quả thật sự trong việc giảm thiểu khổ của những người khác hay sản sinh ra những phẩm chất tốt đẹp của chính mình, nhưng một cách tâm lý sẽ mang đến một sự chuyển hóa trong tâm chúng ta vô cùng hiệu quả mà cảm nhận về từ ái và bi mẫn của chúng ta sẽ được nổi bật hơn.

Cố gắng để áp dụng sự thực tập này trong đời sống hằng ngày của chúng tavô cùng mạnh mẽ và có thể là một sự ảnh hưởng rất hiệu quả đến tâm thức chúng ta và trong sức khỏe của chúng ta. Nếu quý vị cảm thấy rằng nó dường như thấm thía để thực hành, thế thì bất chấp quý vị là một người có tín ngưỡng hay không, quý vị nên cố gắng để đẩy mạnh những phẩm chất tốt đẹp căn bản của loài người.

Một điều quý vị nên nhớ là những sự chuyển hóa tinh thần này cần thời gian và không dễ dàng. Tôi nghĩ một số người ở phương Tây, nơi kỷ thuật quá tân tiến, nghĩ rằng mọi thứ là tự động. Quý vị không nên tiên đoán sự chuyển hóa tâm linh này sẽ xảy ra trong một thời gian ngắn; điều đó không thể. Hãy giữ nó trong tâm tư quý vị và thực hiện một nổ lực liên tục, rồi sau một năm, năm năm, mười năm, mười lăm năm, cuối cùng quý vị sẽ thấy một số thay đổi. Tôi đôi khi vẫn thấy rất khó khăn để thực tập những điều này. Tuy thế, tôi thật sự tin rằng những thực tập này cực kỳ hữu dụng.

Đoạn trích dẫn yêu thích của tôi từ tác phẩm của Đại sư Tịch Thiên là:

"Cho đến khi chúng sinh còn tồn tại,

Cho đến khi không gian còn hiện hữu

Tôi nguyện sẽ vẫn hiện diện nhằm để phụng sự

Nhằm để thực hiện một sự cống hiến nho nhỏ nào đấy

Để làm lợi ích cho những người khác."

 Giving and Receiving trích từ quyển The Art of Living

Ẩn Tâm Lộ ngày 09/09/2011

Bài liên hệ

1- Sống Vui, Sống Khỏe và Toại Nguyện

2- Đối Diện với Cái Chết và Chết An Lành

3- Đối Phó với Sân Hận và Cảm Xúc

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10366)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12333)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13005)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11441)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12370)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53028)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17569)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14501)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20461)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19558)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18648)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12181)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12297)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13855)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14974)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20192)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14609)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11706)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15054)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11647)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13165)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11494)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant