Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

03. Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại

30 Tháng Chín 201100:00(Xem: 9949)
03. Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại

KINH PHÁP CÚ HÁN TẠNG

Thích Nhất Hạnh Việt dịch

Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại
Dịch từ Phẩm Nê Hoàn thứ 36 trong Kinh Pháp Cú Hán tạng

Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana). Trong bản dịch, có chữ trời phương ngoại. Trời phương ngoại là cái không gian vượt ra ngoài không gian, chữ Hán gọi là thiên ngoại thiên hay phương ngoại phương. Phương là không gian, phương ngoại là ngoài không gian, nghĩa là không gian nằm ngoài không gian. Rong chơi trời phương ngoại là đi chơi trong thế giới không gian ngoài không gian. Trong không gian này không có sinh, không có diệt, khống có tới, không có đi, không có còn, không có mất, không có ta, không có người, không có sự phân biệt kỳ thị. Không gian đó bao la vô cùng, gọi là Niết Bàn.

1.
Nhẫn là biện pháp hay nhất để tự bảo hộ
Niết bàn là cái mà Bụt khen ngợi là cao đẹp nhất.
Buông bỏ nếp sống trần tục, sống đời phạm hạnh, không phạm giới,
Làm lắng dịu được tâm ý, thì không có gì có thể xâm phạm được đến mình.

2.
Không bệnh là cái lợi tức lớn nhất
Tri túc là cái giàu có to nhất
Trung thực là người bạn tốt nhất
Niết bàn là cái hạnh phúc cao nhất.

3.
Đói là cái bệnh khó chịu đựng nhất
Tâm hành là cái gây khổ đau nhiều nhất
Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu
Thì Niết bàn là cái lạc thú lớn nhất.

4.
Ở đời, ít người được đi trên nẻo thiện,
Trong khi ấy, kẻ đi trên đường ác thì nhiều.
Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu
Thì Niết bàn là nơi an toàn nhất.

5.
Các cõi trời do tạo tác nhân lành mà mình được sinh lên,
Các ác đạo cũng do ác nhân mà mình bị đọa xuống
Niết bàn cũng như thế
Do nhân duyên tu tập mà có Niết bàn.

6.
Hươu nai nương đồng quê
Chim chóc nương trời mây
Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện
Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi.

7.

Thấy được cái không trước, không sau
Không là, không không
Cái đó là vô đắc
Cũng là cái không thể tư duy được.

8.
Tâm khó thấy, nhưng thói quen có thể nhận ra,
Kẻ nhận diện được dục ý thấy được đầy đủ rằng
Không tìm thú vui trong dục lạc thì tránh được mọi thứ khổ
ái dục luôn luôn làm tăng trưởng niềm đau.

9.
Sáng suốt, không để cho tâm ý bị nhiễm ô
Một khi đã được thanh tịnh hóa thì chế ngự được mọi dục ý.
Lúc ấy không còn phải tiếp cận với thế giới đau khổ nữa
Tuy rằng thấy thì vẫn thấy, nghe thì vẫn nghe,
Nhớ thì vẫn nhớ, và biết thì vẫn biết.

10.
Đạt được cái vô trướcvô phân biệt,
Một khi buông bỏ được mọi ý niệm rồi thì sẽ vào được cõi ấy
Vượt thắng được ý niệm về ngã,
Điều phục được các tâm hànhtác dụng gây đau nhức
Và dứt bỏ được hoàn toàn cái tập khí nhận thức phân biệt kỳ thị, thì khổ đau không còn.

11.
Ở trong hoàn cảnh động mà giữ được tâm thanh hư thì vẫn là tĩnh
Trong cái động, không tiếp cận được Niết bàn, cũng không có an lạc.
Ý niệm về cái vui và cái khổ đã vượt qua rồi thì mới thực sự có cái tịch tĩnh
Vượt qua được cái ý niệm tịch tĩnh thì sẽ không còn cái qua lại nữa.

12.
Cái qua lại đã hết, thì cái sinh tử cũng hết
Sinh tử hết thì làm gì còn phân biệt cái này cái kia ?
Cái này và cái kia, cả hai ý niệm đều chấm dứt
Cái tịch diệt tuyệt đối là cái vắng mặt của cảnh giới đau khổ.

13.
Vị tỳ khưu vì có ý niệm về hữu nên thấy có thời giankhông gian
Vì cái hữu ấy cho nên mới có hành động tạo tác
Cái ý niệm hữu vô sinh ra cái hữu vô
Nếu không có cái tác thì làm gì có cái sở tác ?

14.
Chỉ khi đạt được vô niệm
Mới có thể tới được Niết bàn
Nếu đã là vô sinh thì không còn hữu nữa
Lúc ấy không còn tác, cũng không còn hành.

15.
Thấy có sinh, có hữu, có tác, có hành
Là chưa đạt tới chỗ thiết yếu
Nếu hiểu được thế nào là bất sinh
Thì không thấy còn hữu cũng không còn nhu yếu tác và hành.

16.
Vì hữu nên mới phải có sinh
Và vì sinh cho nên hữu lại tiếp tục
Có tác, có hành, thì tử rồi lại sinh
Đó là cánh cửa sinh tử mở ra, để đưa đến sự phát khởi của các pháp.

17.
Cái gì cũng do thức ăntồn tại
Ngay cả cái buồn, cái vui cũng phải cần thức ăn mới có
Nếu cái chất liệu thiết yếu ấy không còn
Thì không còn dấu vết nào của hành mà mình có thể nhận diện.

18.
Nếu khổ đau đã hết và các hành đã diệt
Thì hạnh phúc sẽ có mặt một cách lặng lẽ, và sẽ có bình an
tỳ kheo đã tự biết mình là ai
Thì không còn phải tìm đi vào một cõi nào nữa.

19. Không đi vào cái hư không
Không có cái nơi đi vào để đi vào
Không đi vào tưởng hay vô tưởng
Không đi vào đời này hay đời sau.

20.
Cũng không có tri giác ý niệm về mặt trờimặt trăng đang có mặt
Không đi cũng không ở lại
Không có một cái ngã để đi và để về
Thì không có cái đi và cái về.

21.
Nơi không có cái mất đi cũng không có cái còn sinh ra
Nơi ấy là Niết bàn.
Như thế thì có đối tượng tri giác hay không có đối tượng tri giác
Bản chất của cái khổ và cái vui, mình đã hiểu thấu.

22.
Cái mình thấy mình không còn sợ hãi nữa
Không còn nghi ngờ gì nữa về ngôn từ hay không ngôn từ
Mũi tên bắn rơi được cái hữu rồi
Thì khi gặp kẻ ngu muội không cần diễn bày gì nữa cả.

23.
Đó là cái lạc thú đệ nhất
Con đường tịch diệt này không có gì cao hơn
Lúc bấy giờ mình có khả năng nhẫn chịu được, tâm mình cũng như đất
Và cái hành nhẫn cũng như một thành quách.

24.
Thanh tịnh như nước trong không còn chút cấu uế
Hết chất liệu luân hồi (sở sinh) thì không tiếp nhận cái kia nữa
Cái thắng và cái lợi không còn làm tiêu chuẩn để đi theo
Bởi vì dù có thắng có lợi nhưng cái khổ vẫn còn đó.

25.
Chỉ nên tự cầu cái thắng lợi về Pháp
Đã có pháp thắng thì không còn sở sinh
Hết sở sinh rồi thì không tạo tác thêm nữa
Muốn không còn luân hồi thì đừng nên có những hành động phóng đãng.

26.
Hạt giống một khi bị đốt cháy rồi thì không sinh lại
Tâm ý đã dừng lại rồi thì cũng như lửa đã tắt
Chốn dâm căn là một biển ô uế
Tại sao lại đi tìm lạc thú ở nơi ấy?

27.
Tuy phía trên kia có những cõi trời
Nhưng cũng không đâu bằng Niết bàn
Đã có nhất thiết trí thì cắt bỏ được tất cả
Ta không còn vướng mắc nữa vào thế gian.

28.
Buông bỏ hết, đã qua bờ diệt độ
Trong các con đường, đây là con đường đẹp nhất
Bụt đã diễn bày pháp chân đế
Kẻ có trí và có dũng có thể làm theo.

29.
Sống phạm hạnh, không một vết nhơ
Tự biết mình, vượt thời gian, đạt an ổn
Trong nếp sống tu tập, trước hết là xa lánh ái dục
Phải tự trang bị mình bằng giới luật của Bụt ngay tự bây giờ.

30.
Diệt phiền não, thoát ra khỏi thế giới hệ lụy
Dễ như con chim cất cánh bay lên không trung
Nếu hiểu được pháp cú này
Thì hãy đem hết lòng mà đi tới trên con đường đạo.

31.
Đó là con đường vượt qua bờ sinh tử
Đưa tới chỗ chấm dứt khổ đau hoạn nạn
Trong đạo pháp, không còn sự phân biệt thân sơ
Không còn hỏi ai có thế lực nhiều, ai không có thế lực.

32.
Quan trọng nhất là đừng bám vào tri giác
Khi cả hai cái cột và mở đều đã thanh tịnh
Thì bậc thượng trí không còn bị kẹt vào cái hình hài dễ tan vỡ này
Và thấy nó là một cái gì không chắc thật.

33.
Hình hài này đem lại khổ lụy nhiều mà an vui ít
Trong chín kẻ hở, không một kẻ hở nào thanh khiết
Người có trí tuệ biết bỏ nguy, giữ an
Chấm dứt ba hoa, trút được mọi khổ nạn.

34.
Thân này một khi đã hủy hoại sẽ trở thành tro bụi
Kẻ có tuệ biết buông bỏ không bám víu
Quán chiếu thấy được thân này là một công cụ mang theo nhiều hệ lụy
Thì sinh lão bệnh tử sẽ không còn là chuyện đau buồn.

35.
Buông bỏ được cấu uế, đi trên đường thanh tịnh
Thì có thể đạt tới cái an tĩnh lớn
Nương tuệ giác, bỏ tà kiến
Không tiếp nhận gì nữa thì đạt được tới lậu tận.

36.
Sống thanh tịnh, vượt thoát được thời gian,
Thì cả hai giới thiên nhân đều nghiêng mình kính nể.


(Tạng chữ Hán: kinh Pháp Cú – ĐCTT: 210 - phẩm 36: Nê hoàn - Thầy Làng Mai dịch từ Hán tạng sang quốc ngữ)

___________________________________

泥洹品 法句經 第三十六三十有六章
Nê hoàn phẩm, Pháp Cú Kinh, đệ tam thập lục tam thập hữu lục chương

泥洹品者。 敘道大歸。 恬惔寂滅。 度生死畏。
nê hoàn phẩm giả。tự đạo Đại quy。điềm 惔 tịch diệt。độ sanh tử úy。


01
忍 為 最 自 守
泥 洹 佛 稱 上
捨 家 不 犯 戒 
息 心無 所 害
nhẫn vi tối tự thủ
nê hoàn Phật xưng thượng
xả gia bất phạm giới 
tức tâm vô sở hại

02
無 病 最 利 
知 足 最 富 
厚 為 最 友 
泥 洹 最 快
vô bệnh tối lợi
tri túc tối phú
hậu vi tối hữu
nê hoàn tối khoái

03
飢 為 大 病 
行 為 最 苦
已 諦 知 此 
泥 洹 最 樂
cơ vi đại bệnh
hạnh vi tối khổ
dĩ đế tri thử 
nê hoàn tối lạc

04
少 往 善 道
趣 惡 道 多 
如 諦 知 此 
泥 洹 最 安
thiểu vãng thiện đạo
thú ác đạo đa
như đế tri thử
nê hoàn tối an

05
從因生善 
從 因 墮 惡 
由因泥洹
所 緣 亦 然
tùng nhân sanh thiện
tùng nhân đọa ác
do nhân nê hoàn 
sở duyên diệc nhiên

06
麋鹿依野 
鳥依虛空
法 歸 其 報 
真 人 歸 滅
mi lộc y dã
điểu y hư không
Pháp quy kỳ báo
chân nhân quy diệt

07
始無如不
始不如無 
是為無得 
亦無有思
thủy vô như bất 
thủy bất như vô
thị vi vô đắc
diệc vô hữu

08
心難見習可覩 
覺欲者乃具見
無所樂為苦際 
在愛欲為增痛
tâm nan kiến tập khả đổ
giác dục giả nãi cụ kiến 
vô sở lạc vi khổ tế
tại ái dục vi tăng thống

09
明不清淨能御 
無所近為苦際
見有見聞有聞 
念有念識有識
minh bất thanh tịnh năng ngự
vô sở cận vi khổ tế
kiến hữu kiến văn hữu văn 
niệm hữu niệm thức hữu thức

10
覩無著亦無識 
一切捨為得際
身 想 滅 痛 行 
識已盡為苦竟
đổ Vô Trước diệc vô thức
nhất thiết xả vi đắc tế
trừ thân tưởng diệt thống hành 
thức dĩ tận vi khổ cánh

11
猗則動虛則淨 
動非近非有樂
樂無近為得寂 
寂已寂已往來
y tức động hư tức tịnh
động phi cận phi hữu lạc 
lạc vô cận vi đắc tịch
tịch dĩ tịch dĩ vãng lai

12
來往絕無生死 
生死斷無此彼
此彼斷為兩滅 
滅無餘為苦除
lai vãng tuyệt vô sanh tử
sanh tử đoạn vô thử bỉ
thử bỉ đoạn vi lưỡng diệt
diệt vô dư vi khổ trừ

13
比丘有世生 
有有有作行
有無生無有 
無 作 無 所 行
Tỳ-kheo hữu thế sanh
hữu hữu hữu tác hạnh 
hữu vô sanh vô hữu 
vô tác vô sở hành


14
夫唯無念者 
為能得自致
無生無復有 
無作無行處
phu duy vô niệm giả
vi năng đắc tự trí
vô sanh vô phục hữu
vô tác vô hành xử

15
生有作行者 
是為不得要
若已解不生 
不 有 不 作 行
sanh hữu tác hành giả
thị vi bất đắc yếu
nhược dĩ giải bất sanh
bất hữu bất tác hành

16
則生有得要 
從生有已起
作 行 致 死 生 
為開為法果
tức sanh hữu đắc yếu
tùng sanh hữu dĩ khởi
tác hành trí tử sanh
vi khai vi pháp quả

17
從食因緣有 
從食致憂樂
而此要滅者 
無復念行迹
tùng thực nhân duyên hữu
tùng thực trí ưu lạc 
nhi thử yếu diệt giả 
vô phục niệm hành tích

18
諸苦法已盡 
行滅湛然安
比丘吾已知 
無復諸入地
chư khổ Pháp dĩ tận
hành diệt trạm nhiên an
Tỳ-kheo ngô dĩ tri
vô phục chư nhập địa

19
無有虛空入 
無 諸 入 用 入
無 想 不 想 入 
無今世後世
vô hữu hư không nhập
vô chư nhập dụng nhập 
vô tưởng bất tưởng nhập
vô kim thế hậu thế

20
亦無日月想 
無往無所懸
我已無往反 
不去而不來
diệc vô nhật nguyệt tưởng
vô vãng vô sở huyền
ngã dĩ vô vãng phản
bất khứ nhi bất-lai

21
不 沒 不 復 生 
是 際 為 泥 洹
如 是 像 無 像 
苦 樂 為 以 解
bất một bất phục sanh
thị tế vi nê hoàn 
như thị tượng vô tượng 
khổ lạc vi dĩ giải

22
所 見 不 復 恐 
無 言 言 無 疑
斷有之 射 箭 
遘 愚 無 所 猗
sở kiến bất phục khủng
vô ngôn ngôn vô nghi
đoạn hữu chi xạ tiến
cấu ngu vô sở y


23
是 為 第 一 快 
此 道 寂 無 上
受 辱 心 如 地 
行 忍 如 門 閾
thị vi đệ nhất khoái
thử đạo tịch vô thượng
thọ nhục tâm như địa 
hạnh nhẫn như môn quắc

24
淨 如 水 無 垢 
生 盡 無 彼 受
利 勝 不 足 恃 
雖 勝 猶 復 苦
tịnh như thủy vô cấu
sanh tận vô bỉ thọ 
lợi thắng bất túc thị
tuy thắng do phục khổ

25
當 自 求 去 勝 
已 勝 無 所 生
畢 故 不 造 新 
厭 胎 無 婬 行
đương tự cầu khứ thắng
dĩ thắng vô sở sanh
tất cố bất tạo tân
yếm thai vô dâm hành

26.
種 燋 不 復 生 
意 盡 如 火 滅
胞 胎 為 穢 海 
何 為 樂 婬 行
chủng tiêu bất phục sanh
ý tận như hỏa diệt
bào thai vi uế hải
hà vi lạc dâm hành

27
雖 上 有 善 處 
皆 莫 如 泥 洹
悉 知 一 切 斷 
不 復 著 世 間
tuy thượng hữu thiện xứ
giai mạc như nê hoàn
tất tri nhất thiết đoạn
bất phục trước thế gian

28
都 棄 如 滅 度 
眾 道 中 斯 勝
佛 以 現 諦 法 
智 勇 能 奉 持
đô khí như diệt độ
chúng đạo trung tư thắng
Phật dĩ hiện đế Pháp
trí dũng năng phụng trì

29
行 淨 無 瑕 穢 
自 知 度 世 安
道 務 先 遠 欲 
早 服 佛 教 戒
hạnh tịnh vô hà uế
tự tri độ thế an
đạo vụ tiên viễn dục
tảo phục Phật giáo giới

30
滅 惡 極 惡 際 
易 如 鳥 逝 空
若 已 解 法 句 
至 心 體 道 行
diệt ác cực ác tế
dịch như điểu thệ không
nhược dĩ giải Pháp
chí tâm thể đạo hành

31
是度生死岸 
苦盡而無患
道法無親疎 
正 不 問 羸 強
thị độ sanh tử ngạn
khổ tận nhi vô hoạn
đạo phápthân sơ
chánh bất vấn luy cường

32
要 在 無 識 想 
結 解 為 清 淨
上 智 饜 腐 身 
危 脆 非 實 真
yếu tại vô thức tưởng
kết giải vi thanh tịnh
thượng trí yếm hủ thân
nguy thúy phi thật chân

33
苦 多 而 樂 少 
九 孔 無 一 淨
慧 以 危 貿 安 
棄 猗 脫 眾 難
khổ đa nhi lạc thiểu
cửu khổng vô nhất tịnh
tuệ dĩ nguy mậu an
khí y thoát chúng nạn

34
形腐銷為沫 
慧見捨不貪
觀身為苦器 
生 老 病 無 痛
hình hủ tiêu vi mạt
tuệ kiến xả bất tham
quán thân vi khổ khí
sanh lão bệnh vô thống

35
棄 垢 行 清 淨 
可 以 獲 大 安
依 慧 以 却 邪 
不 受 漏 得 盡
khí cấu hành thanh tịnh
khả dĩ hoạch Đại An
y tuệ dĩ khước tà
bất thọ lậu đắc tận

36
行 淨 致 度 世 
天 人 莫 不 禮
hạnh tịnh trí độ thế
Thiên Nhân mạc bất lễ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10249)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12231)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28681)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11926)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12897)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11340)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17276)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52689)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21208)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19086)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12304)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25830)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13208)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14269)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16709)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13015)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12430)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11521)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11471)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20259)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18812)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19418)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18491)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12186)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13740)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14885)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14954)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13860)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11296)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17017)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14828)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20041)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13746)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14933)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14471)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13077)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16775)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18237)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11857)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11410)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15713)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18783)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18259)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant