Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Thuần Đà

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12669)
Phẩm Thuần Đà

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ hai

PHẨM THUẦN ÐÀ

PHẦN II

Lúc bấy giờ, trong hội có vị ưu bà tắccon người thợ khéo của thành Câu Thi Na, tên là Thuần Ðà cùng với đồng loại gồm mười lăm người, vì khiến cho thế gian được quả tốt nên xả uy nghi của thân, đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật, buồn cảm rơi lệ, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch đức Phật rằng :

- Nguyện xin đức Thế Tôn và Tỳkheo Tăng thương xót nhận lễ cúng dường sau cùng của chúng con vì độ vô lượng những chúng sinh. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con từ nay không còn chủ, không người thân, không ai cứu, không ai hộ, không chỗ về, không nơi đến, bần cùng đói khát khốn khổ, muốn theo đức Như Lai cầu đồ ăn tương lai, nguyện xin đức Như Lai thương xót nhận cho chút lễ cúng dường của chúng con rồi nhiên hậu mới Niết Bàn ! Thưa đức Thế Tôn ! Ví như sát lợi, hoặc Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà do nghèo cùng nên đến đất nước khác xa xôi, ra sức làm nông mà được trâu điều phục tốt, ruộng tốt bằng phẳng, không có những cát mặn, cỏ xấu, hoang hóa, dơ bẩn, chỉ còn mong trời mưa xuống. Nói trâu điều phục là ví thân miệng tốt. Ruộng tốt bằng phẳng là ví cho trí tuệ. Trừ khử cát mặn, cỏ xấu, hoang hóa, dơ bẩn là ví cho việc trừ khử phiền não. Bạch Thế Tôn ! Con nay, thân có trâu thuần, ruộng tốt, làm sạch cỏ, trừ mọi dơ bẩn chỉ còn mong mưa pháp cam lồ của đức Như Lai. Tứ tánh (bốn giai cấp) nghèo tức là thân con đó. Nghèo là nghèo của báu đối với pháp Vô Thượng, nguyện xin đức Thế Tôn thương xót đoạn trừ sự bần cùng khốn khổ của chúng con ! Cứu vớt vô lượng chúng sinh khổ não ! Lễ cúng dường của con tuy nhỏ mọn nhưng muốn được sung túc đại chúng của đức Như Lai. Con nay không có chủ, không thân thích, không nơi nương về, nguyện xin ngài rũ lòng xót thương như thương La Hầu La.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Nhất Thiết Chủng Trí Vô Thượng Ðiều Ngự bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Ta nay vì ông đoạn trừ bần cùng ! Ðem pháp vũ Vô thượng mưa xuống ruộng thân của ông, khiến cho sinh ra mầm pháp ! Ông nay đối với ta muốn cầu thọ mạng, sắc lực, an vui, vô ngại biện tài ! Ta sẽ ban cho ông thọ mạng, sắc lực, an vui, vô ngại biện tài. Vì sao vậy ? Này Thuần Ðà ! Vì cho ăn có hai quả báo không sai khác. Những gì là hai ? Một là nhận rồi thì được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hai là nhận rồi thì vào Niết Bàn. Ta nay nhận sự cúng dường sau cùng của ông, khiến cho ông đầy đủ Ðàn Balamật.

Bấy giờ, ông Thuần Ðà liền bạch đức Phật rằng :

- Như lời nói của đức Phật, hai quả báo của sự bố thí không sai khác thì nghĩa này chẳng phải ! Vì sao vậy ? Vì người thọ thí trước thì phiền não chưa hết, chưa được thành tựu Nhất thiết chủng trí, cũng chưa có thể khiến cho chúng sinh đầy đủ Ðàn Balamật. Người thọ thí sau phiền não đã hết, đã được thành tựu Nhất thiết chủng trí, có thể khiến chúng sinh đều được đầy đủ Ðàn Balamật. Người thọ thí trước, cũng là chúng sinh, người thọ thí sau là trời trong trời. Người thọ thí trước là thân tạp thực, là thân phiền não, là thân hậu biên, là thân vô thường. Người thọ thí sau là thân không phiền não, là thân Kim cương, pháp thân thường thân, thân vô biên. Tại sao nói quả báo của hai cách bố thí này là bình đẳng không sai khác ? Người thọ thí trước chưa có thể đầy đủ Ðàn Balamật...cho đến Bát nhã Balamật, chỉ được nhục nhãn chưa được Phật nhãn... cho đến tuệ nhãn. Người thọ thí sau đã được đầy đủ Ðàn Balamật.v.v.. cho đến Bát nhã Balamật, đầy đủ Phật nhãn... cho đến tuệ nhãn. Vậy thì sao mà gọi là quả báo hai sự bố thí bình đẳng không sai biệt. Thưa đức Thế Tôn ! Người thọ thí trước, thọ rồi ăn vào bụng, tiêu hóa thì được thọ mạng, được sắc, được lực, được yên, được vô ngại biện. Người thọ thí sau chẳng ăn, chẳng tiêu, không có kết quả năm việc thì sao gọi là quả báo hai sự bố thí bình đẳng, không sai khác ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Như Lai đã ở vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp, không có thân hữu thực, thân phiền não, mà là thân không hậu biên (bờ sau), thân thường còn, thân pháp, thân kim cương. Này thiện nam tử ! Người chưa thấy Phật tính thì gọi là thân phiền não, thân tạp thực, là thân hậu biên. Bồ tát bấy giờ thọ ẩm thực rồi vào Kim cương tam muội, đồ ăn này tiêu rồi liền thấy Phật tính, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói rằng, quả báo của hai sự bố thí bình đẳng, không sai biệt. Bồ tát bấy giờ phá hoại bốn ma, nay vào Niết Bàn cũng phá bốn ma. Vậy nên ta nói rằng, quả báo của hai sự bố thí bình đẳng, không sai biệt. Bồ tát bấy giờ tuy chẳng rộng nói mười hai bộ Kinh, nhưng đã thông đạt trước, nay vào Niết Bànchúng sinh phân biệt diễn nói rộng rãi. Vậy nên ta nói rằng, quả báo hai sự bố thí bình đẳng không sai biệt. Này thiện nam tử ! Thân của Như Lai đã ở vô lượng atăngkỳ kiếp chẳng thọ ẩm thực, vì các Thanh văn nên ta nói rằng, trước thọ sự hiến dâng sữa mè của hai cô gái chăn trâu Nan Ðà và Nan Ðà Ba La nhiên hậu mới được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng thật sự ta chẳng ăn. Ta nay khắp vì tạo tác cho chúng đại hội nên thọ sự dâng hiến sau cùng của ông, thật sự cũng chẳng ăn.

Lúc bấy giờ, đại chúng nghe đức Phật Thế Tôn khắp vì đại hội, thương xót nhận lễ cúng dường tối hậu của ông Thuần Ðà thì vui mừng, nhảy nhót, đồng thanh khen rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Hy hữu thay ! Này ông Thuần Ðà ! Ông nay đứng tên chẳng là rỗng xưng ! Nói Thuần Ðà là tên Giải diệu nghĩa. Ông nay đã kiến lập đại nghĩa như thế. Vậy nên y thật theo nghĩa mà lập danh nên gọi là Thuần Ðà. Ông nay, ở đời hiện tại được danh lợi lớn, đức nguyện đủ đầy. Rất lạ ! Này Thuần Ðà ! Ông sinh tại trong loài người lại được cái lợi vô thượng khó được ! Hay thay ! Này Thuần Ðà ! Như hoa Ưu đàm hiếm có ở thế gian, đức Phật ra đời cũng lại rất khó. Gặp Phật sinh ra, tin nghe pháp lại càng khó. Phật sắp Niết Bàncúng dường tối hậu, có thể bày biện việc này lại khó đến thế ! Nam mô Thuần Ðà ! Nam mô Thuần Ðà ! Ông nay đã đủ Ðàn Balamật giống như trăng thu đêm ngày mười lăm tràn đầy thanh tịnh, không có những mây che, tất cả chúng sinh không ai chẳng chiêm ngưỡng ! Ông cũng như vậy ! Mà vì sự chiêm ngưỡng của chúng tôi, đức Phật đã thọ lễ cúng dường tối hậu của ông khiến cho ông đầy đủ Ðàn Balamật. Nam mô Thuần Ðà ! Vậy nên nói ông như vầng trăng tròn đầy, tất cả chúng sinh không ai chẳng chiêm ngưỡng. Nam mô Thuần Ðà ! Tuy ông thọ thân người nhưng tâm như tâm Phật. Này ông Thuần Ðà ! Ông nay chính là con của Phật chân thật như ngài La Hầu La ngang bằng không có khác.

Lúc bấy giờ, đại chúng liền nói kệ rằng :

Ông tuy sinh nhân đạo Ðã vượt Ðệ Lục Thiền

Chúng ta, tất cả chúng Nay cúi đầu mời ông.

Trong người, bậc Tối Thắng Nay sẽ vào Niết Bàn

Ông nên thương đại chúng Xin mau thỉnh Thế Tôn

Ở lâu ở cõi thế Lợi ích chúng không lường.

Diễn nói việc khen trí Pháp cam lộ không trên.

Nếu ông chẳng thỉnh Phật Mạng chúng ta chẳng toàn

Vậy nên ông ứng kiến Cúi thỉnh đức Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà vui mừng hớn hở, giống như có người cha mẹ chết, làm lễ tang thì bỗng nhiên sống trở lại, ông Thuần Ðà vui mừng cũng lại như vậy. Ông lại đứng dậy lễ đức Phật mà nói kệ rằng :

Sướng thay ! Lợi mình được ! Tốt lành được nhân thân

Tiêu trừ tham, sân nhuế... Lìa mãi ác ba đường !

Sướng thay ! Lợi mình được ! Gặp được nhóm báu vàng

Gặp gỡ đấng Ðiều Ngự Chẳng sợ đọa súc sinh !

Phật như hoa Ưu Ðàm Gặp gỡ sanh tin khó

Gặp rồi gieo thiện căn Mãi diệt khổ ngã quỉ

Cũng lại hay tổn thương A tu la chủng loại.

Hạt cải ném mũi kim Phật ra đời khó vậy !

Con đã đầy đủ Ðàn (Balamật) Ðộ người trời sanh tử

Phật chẳng nhiễm thế gian Như hoa sen ở nước

Giỏi đoạn giống đỉnh nước (?) Qua khỏi dòng tử sinh

Sinh đời, làm người khó Gặp đời Phật khó hơn,

Giống như trong biển cả Rùa mù gặp ván lỗ.

Con nay dâng bữa ăn Nguyện được Vô thượng báo

Tất cả kết não phiền Triệt phá không kiên cố.

Ở chỗ này, nay con Chẳng cầu thân nhân thiên

Giả sử được thân đó Niềm vui lòng chẳng cam.

Như Lai thọ con cúng Vui mừng không có lường

Như hoa Y Lan đó Phát ra hương Chiên đàn

Thân con như Y Lan Như Lai thọ con cúng

Như tỏa hương Chiên đàn Vậy nên con hoan hỷ.

Con được báo hiện tiền Chỗ thượng diệu tối thắng.

Phạm, Thích và chư Thiên... Ðều đến cúng dường con

Tất cả những thế gian Ðều sinh đại khổ não.

Do biết Phật Thế Tôn Nay muốn vào Tịch diệt(Niết bàn)

Lớn tiếng xướng lên rằng: Thế gian không Ðiều Ngự

Chẳng nên bỏ chúng sinh Nên xem như con một.

Như Lai ở trong Tăng Diễn nói pháp Vô thượng

Như Tu Di bảo sơn Ở yên với biển cả.

Trí Phật hay đoạn tan Chúng con vô minh ám

Giống như trong hư không Mây khởi được mát mẻ

Như Lai giỏi trừ khử Tất cả những não phiền

Giống như mặt trời mọc Trừ mây, sáng khắp cùng.

Hôm nay những sinh chúng Luyến mộ thêm bi thương

Ðều bị trôi dạt ở Trong nước khổ tử sinh.

Do vậy nên đức Phật Cho họ dài niềm tin

Vì đoạn khổ sinh tử Ở lâu với thế gian !

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời nói của ông ! Phật ra đời khó như hoa Ưu đàm. Gặp được Phật mà sinh lòng tin cũng lại rất khó. Phật sắp Niết Bàn dâng bữa ăn sau cùng để có thể đầy đủ Ðàn Balamật lại rất khó bội phần. Này Thuần Ðà ! Ông nay chớ sầu khổ quá ! Ông nên phải hoan hỷ, tự mừng rỡ may mắn sâu sắc là được gặp Như Lai cúng dường lần sau cùng, thành tựu đầy đủ Ðàn Balamật ! Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lâu với đời ! Ông nay phải quan sát cảnh giới của chư Phật đều là vô thường, tánh tướng các hạnh cũng lại như vậy.

Ðức Phật liền vì ông Thuần Ðà mà nói kệ rằng :

Tất cả các thế gian Sinh thì đều về tử

Thọ mạng tuy không lường Tất yếu có chung tận.

Thịnh ắt có suy vong Hội họp có ly biệt 

Tuổi trẻ chẳng lâu dừng Thịnh sắc bệnh lấn lướt

Mạng bị thần chết nuốt Không có pháp thường còn.

Các vua được tự tại Thế lực thật vô song

Tất cả đều dời diệt Thọ mạng cũng như trên

Bánh xe khổ không bến Lưu chuyển không nghỉ ngưng

Ba cõi đều vô thường Các hữu chẳng phải lạc (vui)

Tánh tướng hữu các đường Tất cả đều không rỗng

Pháp lưu chuyển hoại tan Thường có những ưu hoạn.

Các lỗi ác kinh hoàng (khủng bố) Già bệnh chết suy não

Là những cái không biên Dễ hoại, oán lấn lướt

Bị phiền não buộc ràng Như tằm ở trong kén

Sao có người tuệ thông Mà phải ưa chỗ đó ?

Thân này khổ đã gom Tất cả đều bất tịnh.

Ung nhọt và buộc ràng... Căn bản không nghĩa lợi

Trên đến thân chư thiên Ðều cũng lại như vậy.

Các dục đều vô thường Nên ta chẳng tham trước

Khéo nghĩ lìa dục xong Mà chứng pháp chân thật.

Ðoạn các “hữu” rốt cùng Hôm nay sẽ Niết Bàn !

Ta qua bờ hữu đó Ra khỏi tất cả khổ

Vậy nên hôm nay đây Chỉ thọ vui thượng diệu !

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Quả thật như lời dạy của đức Thánh ! Nay với sở hữu trí tuệ nhỏ nhoi cạn cợt của con giống như con muỗi con ve thì làm sao có thể nghĩ bàn về ý nghĩa thâm áo Niết Bàn của đức Như Lai ? Thưa đức Thế Tôn ! Con nay đã cùng với các đại long tượng Bồ tát Mahatát đoạn hết những kết lậu như ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.v.v... Thưa đức Thế Tôn ! Ví như đứa trẻ thơ mới được xuất gia, tuy chưa đủ giới mà liền rơi vào tăng số, con cũng như vậy. Do sức thần thông của Phật, Bồ tát nên con được ở vào số đại Bồ tát như vậy. Vậy nên con nay muốn cho đức Như Lai trụ ở đời lâu dài, chẳng vào Niết Bàn. Ví như người đói nhất định không có gì khác để nhổ ra, nguyện xin đức Thế Tôn cũng lại như vậy, thường trụ ở đời, chẳng vào Niết Bàn !

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Này ông Thuần Ðà ! Ông nay chẳng nên nói ra lời như vậy, muốn cho đức Như Lai thường trụ ở đời, chẳng vào Niết Bàn như người đói kia không có gì khác để nhổ ra. Ông nay phải quan sát tánh tướng của các hạnh. Như vậy là quán hạnh cụ không tam muội. Muốn cầu chánh pháp thì ông phải học như vậy.

Ông Thuần Ðà hỏi rằng :

- Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Luận về Như Lai thì trên trời, trong loài người ngài là bậc tối tôn, tối thắng. Như vậy thì đâu là hành động của Như Lai vậy ? Nếu là hành động thì là pháp sinh diệt, ví như bọt nước chóng khởi, chóng diệt, qua lại lưu chuyển giống như bánh xe. Tất cả các hành động cũng lại như vậy. Tôi nghe chư thiên thọ mạng rất dài thì sao đức Thế Tôn là đấng Thiên Trung Thiên (ông trời của trời) mà thọ mạng mau quá, chẳng đầy trăm năm ? Ví như thế lực của vị chúa tụ lạc được tự tại. Do lực tự tại ông ấy có thể áp chế người khác. Người này hết phước, về sau nghèo hèn bị sự khinh miệt của mọi người, bị người khác sách nhiễu, sai khiến. Sở dĩ vì sao ? Vì mất thế lực. Ðức Thế Tôn cũng vậy, đồng với các hành. Nếu người đồng các hành thì chẳng được xưng là đấng Thiên Trung Thiên. Vì sao vậy ? Vì các hạnh tức là pháp sinh tử. Vậy nên, thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài chớ quan sát đức Như Lai đồng với các hành.

Lại nữa, thưa ngài Văn Thù ! Ngài vì biết mà nói hay chẳng biết mà nói rằng, đức Như Lai đồng với các hành. Giả sử đức Như Lai đồng các hành thì chẳng được nói rằng, ở trong ba cõi, đức Như Laiđấng Pháp Vương Tự Tại Thiên Trung Thiên. Ví như vua loài người có vị đại lực sĩ, sức ông ấy đương đầu được một ngàn người, lại không có ai có thể hàng phục nên xưng lực sĩ này là một người đương cự được ngàn người. Như vậy lực sĩ được sự ái niệm của vua, được vua ban tước lộc, phong thưởng tự nhiên. Cho dù đã được xưng là người đương đầu được ngàn người thì sức người này chưa chắc địch được ngàn người mà họ chỉ dùng đủ thứ khả năng về kỹ nghệ để có thể thắng được ngàn người nên xưng là đương cự ngàn người. Ðức Như Lai cũng vậy, ngài hàng phục ma phiền não, ma ấm, ma trời, ma chết... Vậy nên đức Như Lai gọi là bậc tôn quí của ba cõi. Như vị lực sĩ kia, một người đương cự ngàn người. Do nhân duyên này, hoặc thành tựu đầy đủ thứ vô lượng công đức chân thật nên xưng là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri... Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Hôm nay ngài chẳng nên nhớ tưởng phân biệt pháp của đức Như Lai đồng với các hành. Ví như ông trưởng giả giàu to sinh con trai. Thầy tướng chiếm quẻ đứa con có tướng đoản thọ (vắn số). Cha mẹ nghe rồi biết đứa con ấy chẳng gánh vác được sự kế tục nối dõi gia đình nên lại chẳng ái trọng mà xem như cỏ rác. Phàm là người đoản thọ thì chẳng được sự kính niệm của Samôn, Bàlamôn, trai gái, lớn nhỏ.v.v... Giả sử nếu đức Như Lai đồng với các hành thì cũng lại chẳng được sự kính phụng của tất cả thế gian người, trời, chúng sinh. Ðức Như Lai đã nói, chẳng biến, chẳng khác, pháp chân thật, cũng không người thọ. Vậy nên, thưa ngài Văn Thù ! Ngài chẳng nên nói rằng, đức Như Lai đồng với tất cả các hành.

Lại nữa, thưa ngài Văn Thù ! Ví như người con gái nghèo không có nhà ở, không người cứu hộ, lại thêm sự bức bách của bệnh khổ, đói khát. Người này du hành xin, dừng ở nhà trọ, sinh nhờ một đứa con trai, bị chủ nhà trọ này xua đuổi đi. Người ấy bế đứa trẻ này muốn đến đất nước khác, nhưng ở giữa đường gặp phải mưa to gió dữ, lạnh khổ đều đến, bị nhiều muỗi, mòng, ong độc, trùng độc bâu cắn. Qua sông Hằng người con gái ấy ẳm con mà lội. Nước sông chảy nhanh mà người ấy chẳng buông con. Ðến đây thì mẹ con liền đều chung chết chìm. Như vậy nhờ công đức từ niệm, người con gái sau khi mạng chung, sinh lên cõi trời Phạm. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Nếu có thiện nam tử muốn hộ chánh pháp thì chớ nói Như Lai đồng với các hạnh hay chẳng đồng với các hạnh mà chỉ phải tự trách rằng, ta nay ngu si chưa có tuệ nhãn, chánh pháp của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Vậy nên chẳng nên tuyên nói đức Như Lai nhất địnhhữu vi hay nhất địnhvô vi. Nếu người chánh kiến thì nên nói Như Lai nhất địnhvô vi. Vì sao vậy ? Vì có thể vì chúng sinh sinh ra thiện pháp, sinh ra thương xót như người con gái nghèo kia ở tại sông Hằng vì nghĩ yêu con mà bỏ thân mạng. Thưa thiện nam tử ! Bồ tát hộ pháp cũng nên như vậy, thà bỏ thân mạng chứ chẳng nói đức Như Lai đồng với hữu vi mà phải nói rằng, đức Như Lai đồng với vô vi. Do nói đức Như Lai đồng với vô vi nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, như người con gái nghèo kia được sinh lên cõi trời Phạm. Vì sao vậy ? Vì hộ pháp vậy. Sao gọi là hộ pháp ? Nghĩa là nói rằng, đức Như Lai đồng với vô vi. Thưa thiện nam tử ! Người như vậy tuy chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến, như người con gái nghèo kia chẳng cầu Phạm thiênPhạm thiên tự ứng. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Như người đi xa, giữa đường quá mệt mỏi, ở nhờ nhà người khác, đang nằm ngủ trong nhà thì nhà ấy bỗng nhiên cháy lớn chợt khởi lên. Người ấy tức thời thức dậy liền tự suy nghĩ : “Ta đến hôm nay nhất định chết chẳng nghi ngờ gì !” Còn đủ xấu hổ nên người ấy lấy áo buộc thân mình, liền mạng chung sinh lên cõi trời Ðao Lợi. Từ đó về sau người ấy tám mươi lần trở lại làm vua trời Ðại Phạm, trọn trăm ngàn đời sinh ở trong loài người làm vua Chuyển Luân. Người đó chẳng còn sinh vào ba đường ác, đắp đổi thường sinh vào nơi yên vui. Do duyên này nên thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Nếu thiện nam tử có tàm quí thì chẳng nên xem đức Phật đồng với các hạnh ! Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngoại đạo tà kiến có thể nói đức Như Lai đồng với hữu vi. Nhưng Tỳkheo giữ giới thì chẳng nên ở chỗ đức Như Lai sinh tư tưởng hữu vi như vậy. Nếu nói rằng, đức Như Laihữu vi thì tức là nói dối và phải biết rằng, người này chết phải vào địa ngục như người tự ở nơi nhà cửa của mình. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ðức Như Lai chân thậtpháp vô vi ! Chẳng nên lại nói là hữu vi vậy. Ngài từ hôm nay, ở trong sinh tử, nên bỏ vô tri mà cầu nơi chánh trí ! Phải biết đức Như Lai tức là vô vi. Nếu người có thể quan sát đức Như Lai như vậy thì sẽ ba mươi hai tướng đầy đủ, mau chóng thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác !

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử khen ông Thuần Ðà rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Hôm nay ông đã tạo tác nhân duyên trường thọ, có thể biết đức Như Laipháp thường trụ, pháp chẳng biến dị, pháp vô vi ! Hôm nay ông như vậy là khéo che tướng hữu vi của đức Như Lai như người bị lửa vì xấu hổ nên dùng áo buộc thân. Do thiện tâm đó nên sinh lên trời Ðao Lợi, lại được làm Phạm Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, chẳng đến đường ác, thường thọ yên vui. Ông cũng như vậy, khéo che tướng hữu vi của đức Như Lai nên ở đời vị lai nhất định sẽ được ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ mười tám pháp bất cộng, thọ mạng không lường, chẳng ở tại sinh tử, thường thọ yên vui, chẳng bao lâu được thành Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Này ông Thuần Ðà ! Ðức Như Lai tiếp theo sau, sẽ tự nói rộng rãi ! Tôi cùng với ông đều cũng phải che hữu vi của đức Như Lai. Hữu vi, vô vi vã đặt chung đó, ông có thể tùy lúc mau chóng dâng thí cơm ăn ! Thí như vậy là tối thắng trong các thí ! Nếu Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đi xa mệt mỏi cực nhọc thì những vật cần dùng nên phải thanh tịnh tùy lúc mà cấp cho họ. Bố thí nhanh chóng như vậy tức là đầy đủ chủng tử căn bản của Ðàn Balamật. Này ông Thuần Ðà ! Nếu ông có lễ dâng thí tối hậu cho đức Phật và Tăng, hoặc nhiều hay ít, hoặc đủ hay chẳng đủ thì nên mau chóng kịp thời ! Ðức Như Lai chính lúc bấy giờ sẽ vào Niết Bàn !

Ông Thuần Ðà đáp rằng :

- Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Sao hôm nay ngài tham vì bữa ăn này mà nói nhiều, ít đủ cùng chẳng đủ, lệnh cho tôi kịp thời thí ? Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ðức Như Lai ngày xưa, khổ hạnh sáu năm còn tự cố sức ứng phó huống gì là khoản giây lát ngày hôm nay vậy ? Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ngài hôm nay thật cho là đức Như Lai Chánh Giác thọ bữa ăn ấy sao ? Nhưng tôi thì nhất định biết là thân của đức Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải là thân ăn !

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :

- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời nói của ông Thuần Ðà ! Hay thay! Này Thuần Ðà ! Ông đã thành tựu đại trí vi diệu, khéo vào kinh điển Ðại Thừa thậm thâm !

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ông Thuần Ðà rằng :

- Ông cho là Như Lai chính là vô vi thì thân đức Như Lai tức là trường thọ. Nếu tác khởi sự hiểu biết này thì đức Phật được vui lòng ưng ý sao ?

Ông Thuần Ðà đáp rằng :

- Ðức Như Lai chẳng phải riêng vui lòng ưng ý đối với tôi mà cũng lại vui lòng ưng ý đối với tất cả chúng sinh.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng :

- Ðức Như Lai đối với ông và cả với tôi... tất cả chúng sinh đều vui lòng ưng ý hết à ?

Ông Thuần Ðà đáp rằng :

- Ngài chẳng nên nói rằng, đức Như Lai vui lòng ưng ý ! Bàn về việc vui lòng ưng ý thì chính là đão tưởng. Nếu có đão tưởng thì chính là sinh tử. Có sinh tử tức là pháp hữu vi ! Vậy nên, thưa ngài Văn Thù ! Ngài chớ cho là Như Lai chính là hữu vi vậy. Nếu nói rằng, đức Như Laihữu vi thì tôi cùng ngài đều hành điên đảo. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ðức Như Lai không có tư tưởng ái niệm ! Bàn về ái niệm thì như con trâu sữa kia ái niệm con của nó nên tuy đói khát đi tìm nước, cỏ hoặc đủ hay chẳng đủ, bỗng nhiên quay trở về. Các đức Phật Thế Tôn không có ý niệm này mà bình đẳng xem tất cả như ông La Hầu La. Ý niệm như vậy thì tức là cảnh giới trí tuệ của chư Phật. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Ví như vị quốc vương điều xe ngự bốn ngựa mà muốn dong ruổi xe lừa khiến cho kịp bằng xe ấy thì không có chỗ này. Tôi cùng ngài cũng lại như vậy, muốn tận tường sự thâm áo vi mật của đức Như Lai thì cũng không có chỗ này. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi ! Như con chim cánh vàng bay lên hư không cao vô lượng do tuần nhìn xuống biển cả thấy hết các loài thủy tánh như cá, ba ba, con giải, rùa biển, rồng biển... và thấy bóng của mình như đối với gương sáng thấy các sắc tượng. Kẻ phàm phu ít trí chẳng thể trù lượng sự thấy như vậy. Tôi cùng ngài cũng lại như vậy, chẳng thể trù lượng (trù tính đo lường) trí tuệ của đức Như Lai.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ông Thuần Ðà rằng :

- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời nói của ông ! Ta đối với việc này chẳng phải là chẳng thông đạt mà tôi muốn trực tiếp thử thách những việc Bồ tát của ông !

Lúc bấy giờ, từ diện môn của đức Thế Tôn phát ra đủ thứ ánh sáng. Ánh sáng ấy soi sáng thân ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù Sư Lợi gặp ánh sáng ấy rồi thì liền biết việc này mà bảo ông Thuần Ðà rằng :

- Ðức Như Lai hôm nay hiện tướng điềm đó thì chẳng bao lâu nhất định sẽ vào Niết Bàn. Ông trước đã thiết bày lễ cúng dường tối hậu nên tức thời dâng hiến đức Phậtđại chúng. Này ông Thuần Ðà ! Ông phải biết rằng, đức Như Lai phóng ra đủ thứ ánh sáng đó chẳng phải không có nhân duyên.

Ông Thuần Ðà nghe rồi, buồn tê tái lặng lẽ. Ðức Phật bảo :

- Này Thuần Ðà ! Việc phụng thí Phật và đại chúng của ông, nay chính là lúc đó ! Như Lai chính lúc ấy sẽ vào Niết Bàn.

Nói lần thứ hai, lần thứ ba cũng lại như vậy. Bấy giờ, ông Thuần Ðà nghe lời đức Phật rồi, cất tiếng gào khóc bi thương, nghẹn ngào mà nói rằng :

- Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian trống rỗng !

Lại bạch với đại chúng rằng :

- Chúng con hôm nay, tất cả sẽ cùng gieo năm vóc xuống đất, đồng thanh khuyên đức Phật chớ vào Niết Bàn !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo ông Thuần Ðà :

- Ông chớ gào khóc lớn, tự làm loạn tâm mình ! Ông phải xem thân này giống như cây chuối, như bọt nước nóng lúc sôi, huyễn hóa như thành của Càn thát bà, như đồ đất thô, như ánh chớp, cũng như vẽ xuống nước, như người tù sắp chết, như quả chín, như thịt bị chia cắt ra, như chỉ dọc máy dệt hết, như thớt trên, thớt dưới của cối giã... Ông phải quan sát các hạnh giống như đồ ăn tạp độc, pháp hữu vi nhiều những lỗi lầm hoạn nạn !

Ðến đây, ông Thuần Ðà lại bạch đức Phật rằng :

- Ðức Như Lai chẳng muốn ở lâu với đời thì con phải làm sao mà chẳng kêu khóc rằng: Khổ thay ! Khổ thay ! Thế gian trống rỗng ! Nguyện xin đức Thế Tôn thương xót chúng con và các chúng sinh mà ở lâu với đời ! Chớ vào Niết Bàn !

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà :

- Ông nay chẳng nên phát ra lời nói, thương xót con nên ở lâu với đời như vậy, ta vì thương xót ông và tất cả nên ngày hôm nay muốn vào Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì các Phật pháp vậy ! Hữu vi pháp cũng vậy ! Vậy nên vì các đức Phật mà nói kệ này :

Pháp hữu vi ấy Tính nó vô thường

Sinh rồi chẳng trụ Tịch Diệt vui hơn.

Này Thuần Ðà ! Ông nay phải quan sát tất cả hành tạp, các pháp vô ngã, vô thường, chẳng trụ. Thân này có nhiều lỗi hoạn không lường, giống như bọt nước. Vậy nên ông nay chẳng nên khóc gào.

Bấy giờ ông Thuần Ðà lại bạch đức Phật rằng :

- Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Quả đúng như lời dạy của đức Thế Tôn ! Tuy biết đức Như Lai phương tiện thị hiệnvào Niết Bàn mà con chẳng thể chẳng ôm ưu não. Nhưng xét lại suy nghĩ của mình thì lại sinh ra mừng vui !

Ðức Phật khen ông Thuần Ðà :

- Hay thay ! Hay thay ! Ông có thể biết Như Lai thị hiện đồng với chúng sinhphương tiện vào Niết Bàn ! Này Thuần Ðà ! Ông nay hãy nghe, như loài chim Ta-la-ta vào tháng xuân dương (dưỡng khí mùa xuân) đều tập họp chung ở ao A-nậu-đạt đó. Các đức Phật cũng vậy, đều đến chỗ này. Này Thuần Ðà ! Nay ông chẳng nên suy nghĩ các đức Phật trường thọ hay đoản thọ ! Tất cả các pháp đều như tướng của huyễn, đức Như Lai ở trong dùng phương tiện lực, không bị nhiễm trước. Vì sao vậy ? Vì các Phật pháp là vậy. Này Thuần Ðà ! Ta nay thọ sự hiến cúng dường của ông là vì muốn khiến cho ông độ thoát sinh tử và các hữu lậu vậy. Nếu những người, trời đối với sự cúng dường ta lần sau cùng này đều sẽ được quả báo bất động, thường hưởng an vui. Vì sao vậy ? Vì ta là ruộng phước tốt của chúng sinh. Nếu ông muốn vì các chúng sinh tạo tác phước điền thì mau chóng bày biện lễ phụng thí, chẳng nên đình lâu !

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà vì muốn các chúng sinh được độ thoát nên cúi đầu nuốt lệ mà bạch đức Phật rằng : :

- Hay thay ! Thưa đức Thế Tôn ! Nếu khi con đủ sức đảm nhận làm ruộng phưóc thì có thể rõ biết đức Như Lai Niết Bàn và chẳng phải Niết Bàn. Hôm nay chúng con và các Thanh Văn, Duyên Giác, trí tuệ giống như con muỗi con ve, thật chẳng thể đo lường được Như Lai Niết Bàn và chẳng phải Niết Bàn.

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà và quyến thuộc ưu sầu, gào khóc, vây quanh đức Như Lai, đốt hương, tung hoa, hết lòng phụng kính, rồi liền cùng với Văn Thù đứng dậy mà đi cung cấp, bày biện đồ ăn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11535)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10668)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17864)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10105)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12268)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11130)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11999)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11883)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10508)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12562)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13022)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13407)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11521)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19533)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10589)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant