Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm ai thán

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13642)
Phẩm ai thán

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ hai

PHẨM AI THÁN!

Ông Thuần Ðà đi rồi, chưa bao lâu thì lúc đó đất này sáu thứ chấn động... cho đến cõi Phạm cũng lại như vậy. Ðất động có hai, hoặc có địa động hoặc đại địa động. Ðộng nhỏ thì gọi là địa động. Ðộng lớn thì gọi là đại địa động. Có tiếng nhỏ thì gọi là địa động. Có tiếng lớn thì gọi là đại địa động. Ðộng riêng đất thì gọi là địa động. Ðộng tất cả núi rừng sông biển thì gọi là đại địa động. Ðộng một hướng thì gọi là địa động. Xoay chuyển khắp cùng thì gọi là đại địa động. Ðộng gọi là địa động. Khi động có thể khiến cho lòng chúng sinh động gọi là đại địa động. Khi Bồ tát mới từ cõi trời Ðâu Suất xuống cõi Diêm phù đề thì gọi là đại địa động. Bồ tát từ sơ sinh xuất gia, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe chánh pháp và vào Niết Bàn thì gọi là đại địa động. Ngày hôm nay, đức Như Lai sẽ vào Niết Bàn nên đất này động lớn như vậy. Các trời, rồng, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người và chẳng phải người nghe lời nói này rồi thì thân đều nổi da gà, đồng thanh buồn khóc mà nói kệ rằng :

Cúi đầu đấng Ðiều Ngự Chúng con nay mời khuyên

Xa lìa bậc nhân tiên Mãi không có cứu hộ.

Nay thấy Phật Niết Bàn Chúng con chìm bể khổ

Bi luyến ôm lo buồn Như trâu nghé mất mẹ.

Không ai cứu bần cùng Giống như người bệnh khốn

Không thầy thuốc tùy lòng Ăn cái chẳng nên ăn

Chúng sinh bệnh phiền não Bị các kiến hại luôn

Xa lìa vua thuốc pháp Uống độc dược tà môn

Vậy nên Phật Thế Tôn Chẳng nên thấy bỏ sót

Như nước không chủ quân (vua) Nhân dân đều cơ cẩn.

Cũng như vậy, chúng con Mất bóng che, vị pháp (mùi vị pháp)

Nay nghe Phật Niết Bàn Lòng chúng con mê loạn

Như đại địa động rung Mê mất các phương hướng.

Ðại tiên vào Niết Bàn Phật nhật (mặt trời Phật) rơi xuống đất

Nước pháp(pháp thủy) đều khô khan Chúng con nhất định chết

Như Lai vào Niết Bàn Chúng sinh rất khổ não

Như con ông trưởng giả Với cha mẹ, mới chôn

Như Lai vào Niết Bàn Như con chẳng sống lại.

Chúng sinh và chúng con Ðều không người cứu hộ.

Như Lai vào Niết Bàn Cho đến súc sinh loại

Tất cả đều lo buồn Khổ não cháy lòng ấy.

Ngày hôm nay, chúng con Làm sao chẳng sầu não

Như Lai thấy bỏ buông Giống như nhổ nước bọt.

Như mặt trời mọc lên Ánh sáng rất sáng rỡ

Có thể soi lại mình Cũng diệt tất cả tối

Như Lai thần thông quang Hay trừ con khổ não

Ở trong đại chúng đó Ngài như Tu Di Sơn.

Thưa đức Thế Tôn ! Ngài ví như vị quốc vương sinh ra nuôi nấng các con hình mạo đoan chính, lòng thường ái niệm. Trước ngài dạy kỹ nghệ khiến cho chúng đều thông minh linh lợi. Nhiên hậu ngài bỏ họ phó thác cho Chiên đà la. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con ngày hôm nay làm con của vua pháp, nhờ đức Phật dạy bảo đã đủ Chánh kiến, nguyện xin ngài chớ buông bỏ. Như ngài buông bỏ chúng con thì đồng với các vương tử. Nguyện xin đức Phật trụ lại lâu dài, chẳng vào Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người học giỏi các luận, nhưng lại đối với các luận này mà phát sinh kinh sợ. Ðức Như Lai cũng vậy, chúng con thông đạt các pháp mà đối với các pháp lại sinh ra kinh sợ. Giả sử nếu đức Như Lai ở lâu với đời, nói vị cam lồ làm sung túc cho tất cả. Như vậy thì chúng sinh chẳng sợ rơi vào địa ngục nữa. Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người mới học làm việc bị quan bắt nhốt vào ngục tù. Có người hỏi nó rằng : “Ngươi thọ việc gì ?” Nó đáp : “Tôi nay chịu ưu khổ lớn !” Nếu người ấy được giải thoát thì được yên vui. Ðức Thế Tôn cũng vậy, ngài vì chúng con nên tu những hạnh khổ mà nay chúng con còn chưa được khỏi khổ não sinh tử thì làm sao đức Như Lai được hưởng an vui ? Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vị y vương giỏi lý giải phương thuốc, thiên (lệch) dùng bí phương (phương thuốc bí mật) dạy trao cho con mình, ngoài ra chẳng dạy phương thuốc ấy cho người ngoài thọ học. Ðức Như Lai cũng vậy, ngài riêng đem pháp tạng bí mật thậm thâm dạy cho một mình ngài Văn Thù, bỏ sót chúng con, chẳng thấy đức Phật đoái hoài thương xót. Ðức Như Lai đối với pháp nên không bí mật tiếc rẻ như vị y vương kia thiên lệch dạy cho con mình, chẳng dạy cho người ngoài đến thọ học. Vị y vương sở dĩ chẳng thể dạy khắp là vì tình còn hơn thua nên còn có bí mật tiếc rẻ. Tâm của đức Như Lai nhất định không hơn thua thì vì sao chẳng thấy ngài dạy bảo như vậy ? Nguyện xin đức Như Lai ở lâu với đời chớ vào Niết Bàn ! Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người già ít bệnh khổ lìa bỏ con đường bằng mà đi vào đường nguy hiểm. Ðường hiểm nhiều khó khăn, chịu đủ mọi thứ khổ. Lại có người khác thấy họ mà thương xót liền bày ra con đường bằng phẳng đẹp đẽ. Thưa đức Thế Tôn ! Con cũng như vậy. Sở dĩ nói ít là dụ cho người chưa tăng trưởng pháp thân. Sở dĩ nói già là dụ cho phiền não nặng. Sở dĩ nói bệnh khổ là ví cho chưa thoát khỏi sinh tử. Sở dĩ nói đường hiểm là dụ cho hai mươi lăm cõi. Nguyện xin đức Như Lai bày đường dẫn lối cho chúng con đi vào con đường cam lồ chân chánh. Xin ngài ở lâu với đời, chớ vào Niết Bàn !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳkheo rằng :

- Này các Tỳkheo ! Các ông chớ như những người, trời.v.v... phàm phu mà lo buồn kêu khóc ! Các ông phải siêng năng tinh tấn ràng buộc lòng vào chánh niệm !

Những trời, người, atula.v.v... nghe lời nói của đức Phật thì dừng lại, chẳng kêu khóc nữa, giống như có người làm đám tang đứa con yêu của mình, đưa đi chôn cất xong rồi, nén lòng dừng chẳng khóc nữa. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì các đại chúng mà nói kệ rằng :

Ý các ông sẽ thông Chẳng nên sầu khổ lắm

Pháp Phật đều vậy nên Các ông phải lặng lẽ

Ưa hạnh chẳng buông lung Giữ lòng ức niệm chánh

Các phi pháp lìa xong Tự an ủi thọ lạc.

Lại nữa, này các Tỳkheo ! Nếu các ông có sự nghi hoặc thì hôm nay đều phải hỏi ! Hoặc không hay chẳng không, hoặc thường hay vô thường, hoặc khổ hay chẳng khổ, hoặc nương (y) hay chẳng nương, hoặc đi hay chẳng đi, hoặc về hay chẳng phải về, hoặc hằng hay chẳng phải hằng, hoặc đoạn hay thường, hoặc chúng sinh hay chẳng phải chúng sinh, hoặc có hay không, hoặc thật hay chẳng thật, hoặc chân hay chẳng chân, hoặc diệt hay chẳng diệt, hoặc mật hay chẳng mật, hoặc hai hay chẳng hai... Trong đủ thứ pháp như vậy.v.v... có điều gì nghi hoặc thì hôm nay nên hỏi han tìm hiểu. Ta sẽ tùy thuận vì các ông đoạn trừ các nghi hoặc đó cho ! Ta cũng sẽ vì các ông trước nói pháp cam lộ rồi nhiên hậu mới sẽ vào Niết Bàn. Này các Tỳkheo ! Phật ra đời khó, thân người khó được, gặp Phật sinh niềm tin thì việc này cũng khó, hay nhẫn là khó, nhẫn được việc này cũng lại khó, thành tựu cấm giới đầy đủ không khiếm khuyết được quả Alahán thì việc này cũng khó như cầu cát vàng, hoa Ưu đàm bát. Này các Tỳkheo ! Các ông lìa khỏi tám nạn được thân người là khó. Các ông gặp được ta chẳng nên luống qua ! Ta thuở xa xưa, tu đủ thứ hạnh khổ, nay được phương tiện Vô thượng như vậy. Vì các ông nên trong vô lượng kiếp xả bỏ thân, tay, chân, đầu, mắt, não, tủy... Vậy nên các ông chẳng nên buông lung ! Này Tỳkheo các ông ! Sao gọi là trang nghiêm ngôi thành báu chánh pháp đầy đủ các thứ công đức trân bảo ? - Dùng Giới, Ðịnh và Trí tuệ làm tường vách, hào nước ! Các ông hôm nay gặp được ngôi thành báu Phật pháp này thì chẳng nên chọn lấy vật hư ngụy này ! Ví như vị thương chủ gặp được ngôi thành trân bảo mà chọn lấy những sành sỏi đem về nhà. Các ông cũng như vậy, gặp được ngôi thành báu mà chọn lấy vật hư ngụy. Này Tỳkheo ! Các ông chớ vì hạ tâm mà sinh ra biết đủ ! Các ông hôm nay tuy được xuất gia nhưng đối với Ðại Thừa này chẳng phát sinh tham mộ. Này các Tỳkheo ! Các ông tuy thân được mặc cà sa nhiễm y nhưng lòng còn chưa nhiễm pháp Ðại Thừa thanh tịnh. Này các Tỳkheo ! Các ông tuy đi khất thực trải qua nhiều nơi nhưng trước hết chưa từng cầu pháp thực Ðại Thừa. Này các Tỳkheo ! Các ông tuy cạo bỏ râu tóc nhưng chưa vì chánh pháp trừ bỏ các kết sử. Này các Tỳkheo ! Hôm nay ta sẽ chân thật dạy bảo các ông ! Ta nay hiện tại đại chúng hòa hợp, pháp tính của Như Lai chân thật chẳng điên đảo. Vậy nên các ông cần phải tinh tấn nhiếp lấy tâm, dũng mãnh tiêu diệt các kết sử. Mặt trời tuệ mười lực ẩn mất rồi nên các ông sẽ bị sự che phủ của vô minh. Này các Tỳkheo ! Ví như đất đai, các núi, thảo dược được chúng sinh sử dụng. Pháp của ta cũng vậy, sinh ra vị pháp cam lộ diệu thiện mà làm thuốc hay chữa đủ thứ bệnh phiền não của chúng sinh. Ta nay sẽ khiến cho tất cả chúng sinh và các con của ta, bốn bộ chúng, đều an trụ trong bí mật tạng. Ta cũng lại sẽ an trụ trong đó mà vào Niết Bàn. Những gì gọi là bí mật tạng ? Giống như chư y , ba điểm nếu bằng thì chẳng thành y, dọc cũng chẳng thành (?). Như ba mắt trên mặt của Ma Ê Thủ La mới được thành y. Ba điểm nếu khác biệt cũng chẳng được thành. Ta cũng như vậy, pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết Bàn, thân Như Lai cũng chẳng phải Niết Bàn, Maha Bát Nhã cũng chẳng phải Niết Bàn. Ba pháp đều khác, cũng chẳng phải Niết Bàn. Ta nay an trụ ba pháp như vậy vì chúng sinh nên gọi là vào Niết Bàn, như chữ y của đời.

Lúc bấy giờ, các vị Tỳkheo nghe đức Phật Thế Tôn nhất định sẽ Niết Bàn đều lo buồn, thân nổi da gà, rơi nước mắt chan hòa, cúi đầu dưới chân đức Phật, nhiễu quanh vô lượng vòng, bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Con thích nói về Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như, trong dấu chân của tất cả chúng sinh thì dấu chân voi là trên. Vô thường tưởng này cũng lại như vậy, ở trong các tưởng, nó là tối đệ nhất. Nếu có người tinh cần tu tập thì có thể trừ được tất cả tham ái của dục giới ái, vô minh, kiêu mạnvô thường tưởng của sắc giới, vô sắc giới. Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai nếu lìa khỏi vô thường tưởng thì hôm nay chẳng nên vào Niết Bàn. Nếu chẳng lìa khỏi thì sao nói rằng, tu vô thường tưởng thì lìa khỏi ái, vô minh, kiêu mạnvô thường tưởng của ba cõi. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như nhà nông vào thời tiết tháng mùa thu, cày sâu đất của mình thì có thể trừ hết cỏ xấu. Vô thường tưởng này cũng lại như vậy, có thể trừ tất cả tham ái của Dục giới, ái, vô minh, kiêu mạnvô thường tưởng của Sắc giớiVô sắc giới. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như cày ruộng thì cày vào mùa thu là thượng sách, như trong các dấu chân thì dấu chân voi là to nhất, ở trong các tưởng thì vô thường tưởng là trên hết. Thưa đức Thế Tôn! Ví như vị đế vương biết mạng mình sắp hết nên ân xá cho thiên hạ. Những người bị ngục tù, trói buộc, giam giữ đều khiến cho giải thoát. Nhiên hậu nhà vua mới bỏ mạng. Ðức Như Lai hôm nay cũng nên như vậy. Ngài độ cho các chúng sinh, những kẻ vô tri, vô minh, bị trói buộc giam giữ đều khiến cho giải thoát, rồi nhiên hậu vào Niết Bàn. Chúng con hôm nay đều chưa được độ thì làm sao đức Như Lai lại muốn buông bỏ mà vào Niết Bàn ? Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người bị quỉ ám (nắm giữ) gặp được thầy bùa chú giỏi. Nhờ sức chú nên họ liền được trừ bớt. Ðức Như Lai cũng vậy, vì các Thanh Văn trừ quỉ vô minh, khiến cho được an trụ ở pháp Ðại Bát Nhã giải thoát.v.v... như chữ thế y (?). Thưa đức Thế Tôn ! Ví như con hương tượng (một loài voi) bị người bắt trói. Tuy có thầy giỏi nhưng chẳng thể cấm chế, nó phá tan kềm tỏa mà đi theo ý của mình. Chúng con chưa thoát khỏi năm mươi bảy phiền não trói buộc mà sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ, vào với Niết Bàn ? Thưa đức Thế Tôn ! Như người bị bệnh sốt rét gặp được thầy thuốc giỏi thì sự khổ được trừ tiêu. Chúng con cũng như vậy, có nhiều những khổ hoạn, tà mạng, nhiệt bệnh... tuy gặp được đức Như Lai, nhưng bệnh chúng con chưa trừ khỏi, chưa được thường lạc yên ổn vô thượng thì sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ mà vào với Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người say rượu chẳng tự hay biết, chẳng nhận thức được thân sơ, mẹ, con gái, chị em... mà mê mang dâm loạn, nói năng buông thả, nằm trong chỗ bất tịnh. Có thầy giỏi cho thuốc bảo uống. Uống xong, người ấy mữa ra, trở lại tự nhớ biết, lòng mang xấu hổ, tự khắc phục quở trách sâu sắc. Rượu là cội rễ của các ác, bất thiện, nếu có thể đoạn trừ thì xa được mọi tội lỗi. Thưa đức Thế Tôn ! Con cũng như vậy, từ xưa đến nay luân chuyển trong sinh tử, đắm say tình sắc, ham thích ngũ dục, chẳng phải mẹ tưởng mẹ, chẳng phải chị tưởng chị, chẳng phải con gái tưởng con gái, với chẳng phải chúng sinh sinh ra chúng sinh tưởng. Vậy nên luân chuyển chịu khổ sinh tử như người say kia nằm trong bất tịnh. Ðức Như Lai hôm nay sẽ bố thí cho con thuốc pháp, khiến cho con trở lại mữa ra rượu ác phiền não mà con chưa được tâm tỉnh thức thì sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ, vào với Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người khen cây chuối là chắc thật thì không có chỗ này. Thưa đức Thế Tôn ! Chúng sinh cũng vậy, nếu khen ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, dưỡng dục, tri kiến, tác giả, thọ giả... là chân thật thì cũng không có chỗ đó ! Chúng con tu vô ngã tưởng như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như nước uống cặn đục không ai lại dùng. Thân này cũng vậy, vô ngã, vô chủ. Thưa đức Thế Tôn ! Như hoa bảy cánh không có mùi hương. Thân này cũng vậy, vô ngã, vô chủ. Chúng con như vậy lòng thường tu tập vô ngã tưởng. Như đức Phật đã nói, tất cả các pháp không ngã và ngã sở, các Tỳkheo nên thường tu tập. Tu tập như vậy rồi thì trừ được ngã mạn. Lìa ngã mạn rồi thì liền vào Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như dấu vết chim ở trong hư không hiện ra thì không có chỗ này ! Có thể tu tập vô ngã tưởng mà có các kiến thì cũng không có chỗ này !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen các Tỳkheo rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Các ông giỏi có thể tu tập vô ngã tưởng !

Các vị Tỳkheo liền bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con chẳng những chỉ tu tập vô ngã tưởng mà cũng lại tu tập các tưởng khác nữa ! Như là khổ tưởng, vô thường tưởng.v.v... Thưa đức Thế Tôn ! Ví như người say rượu, lòng họ mê loạn, nhìn thấy những núi sông, thành quách, cung điện, mặt trời, mặt trăng, tinh tú... đều xoay chuyển. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có người chẳng tu tập khổ tưởng, vô thường tưởng, vô ngã tưởng.v.v... thì người như vậy chẳng gọi là Thánh mà nhiều những buông lung, lưu chuyển sinh tử. Thưa đức Thế Tôn ! Do nhân duyên này nên chúng con khéo tu tập những tưởng như vậy.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳkheo rằng :

- Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Các ông hướng về sự dẫn dụ người say rượu. Các ông chỉ biết nó về mặt văn tự, chưa đạt đến ý nghĩa của ví dụ ấy. Như người say rượu kia thấy, mặt trời mặt trăng ở trên, thật sự chẳng phải xoay chuyển mà sinh ra tưởng xoay chuyển. Chúng sinh cũng vậy, họ bị các phiền não, vô minh che phủ nên sinh ra lòng điên đảo : Ngã cho là vô ngã, thường cho là vô thường, tịnh cho là bất tịnh, vui cho là khổ...Do bị sự che phủ của phiền não nên tuy sinh ra tưởng này nhưng chẳng đạt được ý nghĩa của chúng, như người say rượu kia đối với việc chẳng phải xoay chuyển mà sinh tưởng chuyển. Ngã tức là Phật nghĩa, thường tức là pháp thân nghĩa, lạc tức là Niết Bàn nghĩa, tịnh tức là pháp nghĩa. Này các Tỳkheo ! Vì sao mà nói rằng, có ngã tưởng thì kiêu mạn, cống cao, lưu chuyển sinh tử ? này các ông ! Nếu nói rằng, ngã cũng tu tập vô thường tưởng, khổ tưởng, vô ngã tưởng thì ba thứ tu này không có thật nghĩa. Ta nay sẽ nói ba pháp tu thù thắng. Khổ thì cho là vui, vui thì cho là khổ đó là pháp điên đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường đó là pháp điên đảo. Vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã đó là pháp điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh đó là pháp điên đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thì người này chẳng biết chánh tu các pháp. Này Tỳkheo các ông ! Ở trong pháp khổ mà sinh ra lạc tưởng; ở trong vô thường mà sinh ra thường tưởng; ở trong vô ngã mà sinh ra ngã tưởng; ở trong bất tịnh mà sinh ra tịnh tưởng. Thế gian cũng có Thường - Lạc - Ngã - Tịnh, xuất thế gian cũng có Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Pháp thế gian thì có chữ không có nghĩa. Pháp xuất thế gian thì có chữ, có nghĩa. Vì sao vậy ? Vì pháp thế gianbốn điên đảo nên chẳng biết nghĩa. Sở dĩ vì sao? Vì có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Do ba điên đảo nên người thế gian trong vui thấy khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngã thấy vô ngã, trong tịnh thấy bất tịnh. Ðó gọi là điên đảo. Do điên đảo nên thế gian biết chữ mà chẳng biết nghĩa. Những gì là nghĩa ? - Vô ngã tức là sinh tử, ngã tức là Như Lai. Vô thườngThanh Văn, Duyên Giác, thường là pháp thân của Như Lai. Khổ là tất cả ngoại đạo, lạc tức là Niết Bàn. Bất tịnh tức là pháp hữu vi, tịnh là chánh pháp sở hữu của các đức Phật Bồ tát. Ðó gọi là chẳng điên đảo. Do chẳng điên đảo nên biết chữ, biết nghĩa. Nếu người muốn xa lìa bốn điên đảo thì nên biết Thường - Lạc - Ngã - Tịnh như vậy.

Các vị Tỳkheo bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói, lìa bốn điên đảo thì được biết rõ Thường - Lạc - Ngã - Tịnh, đức Như Lai hôm nay vĩnh viễn không có bốn điên đảo thì đã rõ biết Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Nếu đã rõ biết Thường - Lạc - Ngã - Tịnh thì vì sao đức Như Lai chẳng trụ một kiếp hay nữa kiếp để dạy bảo, dẫn đường chúng con khiến cho chúng con lìa khỏi bốn điên đảo mà lại buông bỏ chúng con, muốn vào Niết Bàn. Ðức Như Lai nếu đoái hoài nghĩ đến, dạy bảo thì chúng con sẽ hết lòng, thọ lĩnh để tu tập. Ðức Như Lai nếu phải vào Niết Bàn thì chúng con làm sao cùng với tấm thân độc hại này đồng chung dừng ở tu tập phạm hạnh ? Chúng con cũng sẽ theo đức Phật Thế Tôn vào với Niết Bàn !

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳkheo rằng :

- Các ông chẳng nên nói ra lời như vậy ! Chánh pháp vô thượng sở hữu của ta hôm nay đều đem phú chúc cho ông Ma Ha Ca Diếp. Ông Ca Diếp này sẽ vì các ông làm đại y chỉ, giống như Như Lai vì các chúng sinh làm chỗ y chỉ. Ông Ma Ha Ca Diếp cũng lại như vậy, sẽ vì các ông làm chỗ y chỉ. Ví như vị đại vương thống lĩnh nhiều việc. Nếu khi đi tuần du thì đem hết việc nước phú chúc cho vị đại thần. Như Lai cũng vậy, cũng đem chánh pháp sở hữu mà phú chúc cho ông Ma Ha Ca Diếp. Các ông phải biết, trước tiên việc tu tập Vô thường tưởng, Khổ tưởng chẳng phải là chân thật. Ví như vào mùa xuân có những người ở tại ao lớn, tắm rửa, ngồi thuyền dạo chơi, làm rớt báu lưu ly chìm sâu trong nước. Lúc đó, mọi người đều cùng vào trong nước tìm kiếm bảo vật này. Họ đua nhau bắt lấy ngói, đá, cỏ cây, cát sỏi mà mỗi mỗi đều tự cho là được ngọc lưu ly, vui mừng mang ra khỏi nước, mới biết chẳng phải thật. Lúc đó ngọc báu còn ở trong nước, do sức của ngọc nên nước đều lắng trong. Ðến đây, đại chúng mới thấy ngọc báu còn ở dưới nước giống như ngước xem hình dáng vầng trăng trong hư không. Lúc đó, trong chúng có một người trí dùng sức phương tiện, từ từ vào trong nước, liền lấy được ngọc. Này Tỳkheo ! Các ông chẳng nên như vậy tu tập Vô thường tưởng, Khổ tưởng, Vô ngã tưởng, Bất tịnh tưởng.v.v... mà lấy làm thật nghĩa, như những người kia đều lấy ngói, đá, cỏ cây, cát sỏi mà làm ngọc báu. Các ông cần phải giỏi học phương tiện để tại khắp nơi nơi luôn luôn tu tập Ngã tưởng, Thường tưởng, Lạc tưởng, Tịnh tưởng. Các ông lại cần phải biết trước tiên việc tu tậptướng mạo của bốn pháp đều là điên đảo. Người muốn được chân thân tu các tưởng thì phải như người trí kia, khéo léo tìm ra ngọc báu, gọi là Ngã tưởng, Thường tưởng, Lạc tưởng, Tịnh tưởng.

Lúc bấy giờ, các vị Tỳkheo bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật trước đã nói, các pháp vô ngã, các ông phải tu học, tu học đó rồi thì lìa khỏi ngã tưởng, lìa khỏi ngã tưởng thì lìa kiêu mạn, lìa kiêu mạn thì được vào Niết Bàn. Ðó là ý nghĩa ra sao ?

Ðức Phật bảo các Tỳkheo rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Hôm nay, các ông có thể hỏi han ý nghĩa này là đã tự đoạn nghi hoặc rồi. Ví như vị quốc vương tối tăm, đần độn, ít trí có một người thầy thuốc, tính khí lại ngang ngạnh tự đắc mà nhà vua chẳng riêng ban cho bổng lộc hậu. Ông ấy trị liệu mọi bệnh thuần dùng thuốc sữa, cũng lại chẳng biết căn nguyên của sự khởi bệnh. Tuy ông biết thuốc sữa nhưng lại chẳng khéo giải trừ bệnh phong lãnh nhiệt (cảm sốt). Tất cả các bệnh ông đều dạy uống sữa. Vị vua này chẳng phân biệt được vị thầy thuốc đó biết sữa tốt xấu, lành dữ. Lại có vị thầy thuốc sáng suốt, thông hiểu tám thứ thuật, giỏi trị liệu mọi bệnh, biết các phương thuốc, từ phương xa đến. Lúc đó người thầy thuốc cũ chẳng biết học hỏi, trái lại sinh lòng cống cao, khinh mạn. Lúc đó vị thầy thuốc sáng suốt liền cận kề thỉnh làm thầy, hỏi han pháp bí ảo của y phương và nói với người thầy thuốc cũ rằng : “Tôi nay thỉnh ngài làm sư phạm ! Nguyện xin ngài vì tôi tuyên xướng, giải nói !”. Người thầy thuốc cũ đáp rằng : “Ông nay nếu có thể làm kẻ sai bảo cho ta bốn mươi tám năm thì nhiên hậu ta mới sẽ dạy cho ông y pháp !” Lúc đó vị thầy thuốc sáng suốt liền nhận lời dạy ấy mà nói rằng : “Tôi sẽ như vậy ! Tôi sẽ như vậy ! Tùy theo sở năng của tôi, tôi sẽ cung cấp và chịu sự sai khiến của ngài”. Lúc đó, người thầy thuốc cũ liền đem vị khách y cùng vào yết kiến nhà vua. Lúc đó vị khách y liền vì nhà vua nói đủ thứ y phương và các kỹ nghệ khác rằng : “Thưa Ðại vương ! Ngài phải biết rằng, nên khéo phân biệt : pháp này như vậy có thể dùng trị nước ! Pháp này như vậy có thể dùng chữa bệnh !”. Bấy giờ, vị quốc vương nghe lời nói này rồi mới biết người thầy thuốc cũ si ám vô trí nên liền đuổi đi, lệnh cho ra khỏi quốc giới, rồi nhiên hậu cung kính vị khách y bội phần. Khi đó vị khách y tác khởi ý niệm rằng : “Muốn giáo hóa nhà vua thì hôm nay chính là lúc”. Ông liền nói với nhà vua rằng : “Thưa Ðại vương ! Ðối với tôi nếu ngài thật sự ái niệm thì tôi sẽ yêu cầu ngài một nguyện vọng”.

Nhà vua liền đáp rằng :

- Từ vai phải này và bộ phận khác của thân thể, theo ý cầu xin của ông, tôi đều cho tất cả.

Vị khách y đó nói rằng :

- Nhà vua tuy hứa cho tôi tất cả bộ phận thân thể, nhưng tôi chẳng dám có sự cầu xin nhiều. Việc cầu xin của tôi hôm nay là, nguyện xin đức vua truyền lệnh cho tất cả trong nước, từ nay về sau chẳng được uống thuốc sữa của vị thầy thuốc cũ. Sở dĩ vì sao ? Vì thuốc đó độc hai gây nhiều thương tổn. Nếu ai còn uống thì sẽ chém đầu. Ðoạn dứt thuốc sữa rồi, nhất định không có người chết oan uổng nữa mà thường sống yên vui nên tôi cầu xin nguyện vọng đó !

Nhà vua đáp rằng :

- Sự cầu xin của ông chừng như chẳng đủ lời !

Nhà vua liền vì ông ấy tuyên lệnh cho tất cả trong nước, phàm những người bệnh đều chẳng được phép lấy sữa làm thuốc. Nếu ai lấy nó làm thuốc thì sẽ bị chặt đầu.

Lúc bấy giờ, vị khách y hòa hợp mọi thứ thuốc, như là các vị cay, đắng, mặn, ngọt, chua.v.v... để trị liệu mọi bệnh thì không bệnh gì chẳng khỏi. Sau đó chẳng bao lâu, nhà vua lại bị bệnh, liền ra lệnh cho vị thầy thuốc này : “Ta nay bệnh khốn phải điều trị làm sao ?” Vị thầy thuốc xem bệnh nhà vua rồi thấy nên dùng thuốc sữa, liền tâu với vua rằng :

- Như theo bệnh của nhà vua thì cần phải uống sữa. Việc đoạn dứt thuốc sữa lúc trước của tôi là chẳng phải lời nói thật. Hôm nay, nếu ngài uống thì bệnh rất có thể trừ được bệnh. Bệnh nóng sốt của nhà vua hôm nay chính nên uống sữa !

Nhà vua nói với vị thầy thuốc rằng :

- Ông nay điên hay sao ? Bị bệnh sốt ư ? Mà nói uống sữa có thể trừ được bệnh này. Trước đây ông bảo là độc, nay sao lại bảo uống ? Muốn lừa dối ta sao ? Thầy thuốc trước khen sữa, còn ông cho rằng nó độc, khiến ta đuổi ông ấy đi. Hôm nay ông lại cho rằng sữa rất tốt có thể trừ bệnh. Như lời nói của ông thì người thầy thuốc cũ của ta nhất định là hơn ông.

Lúc đó vị khách y lại nói với vua rằng :

- Nhà vua nay chẳng nên nói lời như vậy ! Như loài trùng ăn gỗ tạo thành chữ thì loài trùng này chẳng biết là chữ hay chẳng phải chữ. Kẻ trí thấy chữ đó chẳng cho rằng loài trùng này hiểu được chữ, cũng chẳng kinh ngạc, quái lạ. Ðại vương phải biết, vị cựu y cũng vậy, ông chẳng phân biệt được các bệnh mà đều cho thuốc sữa như đường ăn gỗ của loài trùng kia ngẫu nhiên thành chữ. Vị cựu y lúc trước này chẳng hiểu biết sự tốt xấu thiện ác của thuốc sữa.

Nhà vua hỏi rằng :

- Sao gọi là chẳng hiểu biết ?

Vị khách y đáp nhà vua rằng :

- Thuốc sữa đó cũng là độc hại, cũng là cam lộ. Sao gọi sữa đó là cam lộ ? Nếu con trâu lấy sữa này chẳng ăn cặn rượu, cỏ trụi, rơm rạ, nghé con của nó điều phục, thuần tính, bãi chăn thả chẳng ở tại vùng cao, cũng chẳng ở dưới thấp ẩm ướt, uống bằng nước trong, chẳng dong ruổi đuổi chạy, chẳng cho trâu nghé ở chung bầy, ăn uống điều hòa thích hợp, đi đứng được chỗ thì sữa của con trâu như vậy có thể trừ các bệnh. Sữa đó gọi là cam lồ diệu dược. Trừ loại sữa đó ra, còn tất cả đều gọi là độc hại.

Bấy giờ, vị đại vương nghe lời nói đó rồi liền khen rằng :

- Này đại y (vị thầy thuốc lớn) ! Hay thay ! Hay thay ! Ta từ ngày hôm nay, mới biết được sự thiện ác, tốt xấu của thuốc sữa.

Nhà vua liền uống thuốc sữa và bệnh được trừ khỏi, tức thời tuyên lệnh cho tất cả trong nước từ nay về sau phải uống thuốc sữa. quốc dân nghe lệnh đó đều sinh ra sân hận, đều nói với nhau rằng : “Nhà vua hôm nay bị quỉ ám hay bị điên rồi sao mà lừa gạt chúng ta lại ra lệnh uống sữa”. Tất cả nhân dân đều ôm lòng sân hận, đều tập họp ở chỗ vua. Nhà vua nói rằng :

- Các người chẳng nên đối với ta mà sinh ra sân hận ! Như thuốc sữa này uống hay chẳng uống đều là thầy thuốc dạy, chẳng phải là lỗi của ta !

Lúc bấy giờ, đại vương cùng những nhân dân nhảy nhót vui mừng cung kính cúng dường bội phần vị thầy thuốc đó. Tất cả người bệnh đều uống thuốc sữa, bệnh đều trừ khỏi hết.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này Tỳkheo ! Các ông phải biết rằng, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, là Ðại Y vương xuất hiệnthế gian, hàng phục tất cả ngoại đạo, tà y, ở trong bốn chúng xướng lên như vầy : “Ta là Y vương !” Ta muốn hàng phục ngoại đạo nên xướng lên rằng : “Không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng, không dưỡng dục, không tri kiến, không tác giả, không thọ giả”. Này các Tỳkheo ! Các ông phải biết, lời nói của các ngoại đạo này về ngã như loài trùng ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ vậy. Vậy nên Như Lai, ở trong Phật pháp xướng rằng, vô ngã là vì điều phục chúng sinh, vì biết thời. Vô ngã như vậy là có nhân duyên nên ta cũng nói hữu ngã, như vị thầy thuốc giỏi kia giỏi biết sữa là thuốc, là chẳng phải thuốc, chẳng phải như việc cho có ngô ngã của kẻ phàm phu. Việc cho là Ngã của kẻ phàm phu ngu muội thì hoặc có người nói rằng, lớn như ngón tay cái, hoặc như hạt cải, hoặc như vi trần. Như Lai nói về Ngã đều chẳng như vậy. Vậy nên nói rằng, các pháp vô ngã, thật ra chẳng phải vô ngã. Cái gì là Ngã ? Nếu pháp là thật là chân, là thường, là chủ, là y tính chẳng biến dị thì đó gọi là Ngã. Như vị Ðại y kia giỏi lý giải thuốc sữa, Như Lai cũng vậy, vì các chúng sinh nên nói trong các pháp chân thật có Ngã. Bốn chúng các ông cần phải tu tập pháp này như vậy.

 

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

- Quyển thứ hai hết -

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17966)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12341)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10596)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19629)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13485)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11833)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14497)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13602)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12882)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18001)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11148)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9062)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12160)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12198)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14258)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19677)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24580)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant