Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm văn tự

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12746)
Phẩm văn tự

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ tám

PHẨM VĂN TỰ 

PHẦN XIII:

 

Ðức Phật lại bảo ngài Ca Diếp rằng :

- Sẵn có đủ thứ dị luận, chú thuật, ngôn ngữ, văn tự... đều là Phật nói, chẳng phải ngoại đạo nói.

Ngài Ca Diếp Bồ tát bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là đức Như Lai nói về căn bản của chữ (tự)?

Ðức Phật nói rằng :

- Này thiện nam tử ! Ðầu tiên nói nửa chữ (bán tự) để làm căn bản giữ gìn những ký luận, chú thuật, văn chương, các thật pháp của ấm. Người phàm phu học căn bổn của chữ như vậy, vậy sau mới biết là pháp hay phi pháp.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Cái gọi là chữ thì nghĩa ấy ra sao?

- Này thiện nam tử ! Có mười bốn âm gọi là tự nghĩa. Cái gọi rằng chữ thì gọi là Niết Bàn, thường cố định chẳng trôi chảy. Nếu chẳng trôi chảy thì tức là vô tận. Phàm đã vô tận thì tức là thân Như Lai Kim Cương. Mười bốn âm này gọi là tự bản (gốc chữ). A ngắn là chẳng phá hoại mà chẳng phá hoại thì gọi là Tam Bảo, ví như Kim Cương. Lại nữa, A thì chẳng trôi chảy mà chẳng trôi chảy thì tức là Như Lai. Chín lỗ của Như Lai không có sự trôi chảy nên chẳng trôi chảy. Lại không có chín lỗ nên chẳng trôi chảy. Chẳng trôi chảy tức là thường còn mà thường còn tức là Như Lai. Như Lai không tạo tác nên chẳng trôi chảy. Lại nữa, chữ A thì gọi là công đứccông đức tức là Tam bảo. Vậy nên gọi là A. Tiếp đến là A dài thì gọi là A xà lê. A xà lê nghĩa là gì vậy? Nghĩa là ở trong thế gian được gọi là Thánh giả. Sao gọi là Thánh? Gọi là Thánh thì không nhiễm trước, thiểu dục, tri túc, cũng gọi là Thanh tịnh, có thể độ chúng sinh lưu chuyển trong bể cả sinh tửba cõi. Ðó gọi là Thánh. Lại nữa, chữ A gọi là chế độ, tu trì tịnh giới, thuận theo uy nghi. Lại nữa, chữ A gọi là nương (y) thánh nhân học theo uy nghi tiến, dừng, cử động, cúng dường, cung kính, lễ bái Tam Tôn, hiếu thuận, phụng dưỡng cha mẹ và học Ðại Thừa. Những thiện nam nử trì đủ cấm giới và các Ðại Bồ tát.v.v... đều được gọi là Thánh nhân. Lại nữa, chữ A gọi là Giáo hối (dạy răn). Như nói rằng : “Các ông nên làm như vầy ! Chớ làm như vầy !” Nếu người có thể ngăn chận những pháp chẳng phải oai nghi thì gọi là Thánh nhân. Vậy nên gọi là chữ A.

Chữ Y ngắn tức là Phật pháp, phạm hạnh rộng lớn, thanh tịnh không cấu bẩn ví như trăng tròn đầy. Các ông nên làm, chẳng nên làm như vậy, là nghĩa là phi nghĩa, đây là Phật nói, đây là ma nói, đó gọi là Y. Y dài là Phật pháp vi diệu thậm thâm khó được. Như pháp của trời Tự Tại, trời Ðại Phạm thì gọi là tự tại mà nếu người có thể trì giữ thì gọi là hộ pháp. Lại nữa, Tự tại thì gọi là bốn hộ thế. Bố tự tại này thì có thể nhiếp hộ Kinh Ðại Niết Bàn, cũng có thể trình bày diễn nói. Lại nữa, chữ Y là có thể vì chúng sinhtự tại nói pháp. Lại nữa, chữ Y là tự tại thì nên nói những gì đó vậy? Ðiều đó gọi là tu tập Kinh điển Phương Ðẳng. Lại nữa, chữ Y là đoạn dứt tật đố (ganh ghét) như diệt trừ cỏ xấu, khiến cho tất cả đều biến thành kiết tường (tốt đẹp). Vậy nên gọi là Y.

Chữ Ưu ngắn là ở trong Kinh, cái tối thượng, tối thắng, tăng trưởng lên trên hết thì gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, chữ Ưu là tính của Như Lai, điều chưa từng nghe của Thanh Văn, Duyên Giác, như tất cả xứ thì xứ Uất Ðan Việt phương Bắc là tối thù thắng. Bồ tát nếu có thể thính thọ Kinh này thì đối với tất cả chúng sinh là bậc tối thượng, tối thắng. Vậy nên gọi Ưu. Ưu dài là ví như sữa trâu so trong các vị là trên hết. Tính Như Lai cũng lại như vậy, ở trong các Kinh là tối tôn, tối thượng. Nếu có ai bài báng thì ông phải biết, người đó cùng với trâu không khác biệt. Lại nữa, chữ Ưu là người gọi là không có trí tuệ, chánh niệm mà bài báng Như Lai vi mật bí tạng thì phải biết là người đó rất đáng thương xót, xa lìa tạng bí mật của Như Lai mà nói pháp Vô ngã. Vậy nên gọi là Ưu.

Chữ Sẩn tức là các Phật pháp tính Niết Bàn. Ðó gọi là Sẩn. Dã là gọi nghĩa của Như Lai. Lại nữa, Dã là tiến dừng co duỗi, cử động của Như Lai không gì chẳng lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vậy nên gọi là Dã.

Chữ Ô là tên gọi nghĩa phiền nãophiền não gọi là các lậu. Như Lai vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não nên gọi là Ô. Pháo là gọi nghĩa Ðại Thừa, đối với mười bốn âm là nghĩa cứu cánh. Kinh điển Ðại Thừa cũng lại như vậy, đối với các kinh luận là tối cứu cánh. Vậy nên gọi là Pháo.

Am là có thể ngăn chặn tất cả các vật bất tịnh, ở trong Phật pháp, có thể xả bỏ tất cả vật báu, vàng, bạc. Vậy nên gọi là Am. Chữ A ( ) là gọi nghĩa Thắng Thừa. Vì sao vậy? Vì Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này ở trong các Kinh là tối thù thắng. Vậy nên gọi là A.

Chữ Ca là đối với các chúng sinh khởi lên Ðại Từ bi, sinh ra tử tưởng (tưởng là con) như La Hầu La, tạo tác nghĩa diệu thiện. Vậy nên gọi là Ca. Chữ Khư là gọi chẳng phải bạn lành mà chẳng phải bạn lành thì gọi là tạp uế, chẳng tin bí mật tạng của Như Lai. Vậy nên gọi là Khư. Dà là gọi tạng mà tạng tức là Như Lai bí tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính nên gọi là Dà. Trọng âm Dà là âm thường còn của Như Lai. Những gì là âm thường còn của Như Lai? Ðó là Như Lai thường trụ bất biến. Vậy nên gọi là Dà (trọng âm). Chữ Nga là tất cả các hành tướng phá hoại. Vậy nên gọi là Nga.

Già tức là nghĩa của tu; điều phục tất cả các chúng sinh nên gọi là nghĩa của tu. Vậy nên gọi là Già. Xa là Như Lai che phủ tất cả chúng sinh ví như bảo cái lớn. Vậy nên gọi là Xa. Xà là chánh giải thoát, không có tướng già. Vậy nên gọi là Xà. Chữ Xà trọng âm là phiền não ràng rịt ví như rừng rậm. Vậy nên gọi là Xà (trọng âm). Chữ Nhã là nghĩa trí tuệ, biết tính pháp chân thật. Vậy nên gọi là Nhã. Chữ Tra là ở cõi Diêm phù đề thị hiện bán thân mà diễn nói pháp ví như bán nguyệt (nửa vầng trăng). Vậy nên gọi là Tra. Chữ Tha ( ) là pháp thân đầy đủ ví như vầng trăng tròn đầy. Vậy nên gọi là Tha. Chữ Trà là Tăng ngu si, chẳng biết thường cùng vô thường ví như đứa trẻ. Vậy nên gọi là Trà. Chữ Trà trọng âm là chẳng biết ơn thầy ví như con dê đen. Vậy nên gọi là Trà (trọng âm). Chữ Noa là chẳng phải là Thánh nghĩa ví như ngoại đạo. Vậy nên gọi là Noa.Chữ Ða là Như Lai ở đó bảo, các Tỳ kheo nên lìa khỏi kinh sợ, ta sẽ vì các ông nói pháp vi diệu. Vậy nên gọi là Ða. Chữ Tha là gọi nghĩa ngu si. Chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử tự trói buộc như con tằm. Vậy nên gọi là Tha. Chữ Ðà là gọi rằng Ðại thí như là Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Ðà. Chữ Ðà trọng âm là xưng tán công đức. Ðó là Tam Bảo như núi Tu Di cao ngất rộng lớn, không có điên đão. Ðó gọi là Ðà. Chữ Na là Tam Bảo an trụ không có khuynh động ví như cái then cửa. Vậy nên gọi là Na. Chữ Ba là gọi nghĩa điên đão. Nếu nói rằng, Tam Bảo đều diệt hết thì phải biết là người này tự nghi hoặc. Vậy nên gọi là Ba. Chữ Pha là tai ách của thế gian. Nếu có người nói rằng, khi tai ách của thế gian khởi lên thì Tam Bảo cũng hết, phải biết là người đó ngu si, vô trí, trái lỗi Thánh chỉ. Vậy nên gọi là Pha. Chữ Bà là gọi mười lực của Phật. Vậy nên gọi là Bà. Chữ Bà trọng âm là gọi gánh nặng. Người đủ sức gánh vác Chánh pháp Vô thượng thì phải biết người đó là Ðại Bồ tát. Vậy nên gọi Bà. Chữ Ma là các Bồ tát với chế độ trang nghiêm cao vời, gọi là Ðại Bát Niết Bàn của Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Ma. Tà (gia?) là các Bồ tát ở tại khắp nơi nơi vì những chúng sinh nói pháp Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Tà. La là có thể hoại tan tham dục, sân nhuế, ngu si, nói pháp chân thật. Vậy nên gọi là La. Chữ La khinh âm (âm nhẹ) là gọi hàng Thanh Văn thừa chuyển động chẳng trụ, Ðại Thừa yên ổn không có khuynh động. Bỏ Thanh Văn thừa, tinh cần tu tập Ðại Thừa vô thượng. Vậy nên gọi là La (khinh âm). Chữ Hòa là Như Lai Thế Tôn vì các chúng sinh mưa xuống Ðại Pháp Vũ, gọi là kinh sách, chú thuật của thế gian. Vậy nên gọi là Hòa. Chữ Xa ( ) là xa lìa ba mũi tên (tam độc?). Vậy nên gọi là Xa. Chữ Sa là gọi nghĩa đầy đủ. Nếu người có thể nghe Kinh Ðại Niết Bàn này thì tức là đã được nghe và thọ trì tất cả Kinh điển Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Sa. Ta là vì các chúng sinh diễn nói chánh pháp, khiến cho lòng họ hoan hỷ. Vậy nên gọi là Ta. Ha là gọi tâm hoan hỷ khen : “Lạ thay ! Ðức Thế Tôn lìa khỏi tất cả hành! Lạ thay ! Ðức Như Lai vào Bát Niết Bàn !”. Vậy nên gọi là Ha. Chữ La là gọi Ma nghĩa. Vô lượng những ma chẳng thể hủy hoại Như Lai Bí Tạng. Vậy nên gọi là La. Lại nữa, chữ La là thậm chí thị hiện thuận theo thế gian, có cha mẹ, vợ con... Vậy nên gọi là La.

Lỗ, Lưu, Lô, Lâu, bốn chữ như vậy nói có bốn nghĩa là Phật, Pháp, Tăng và cả đối pháp. Nói đối phápthuận theo thế gian như Ðề Bà Ðạt Ða thị hiện hoại Tăng, hóa làm đủ thứ hình dáng sắc tượng Vì chế ra giới luật nên kẻ trí thông đạt biết rõ thì chẳng nên đối với việc này mà sinh ra kinh sợ. Ðó gọi là hành động tùy thuận thế gian. Do đó cho nên gọi là Lỗ, Lưu, Lô, Lâu.

Hít hơi vào cơ quan của lưỡi, theo tiếng của mũi, tiếng dài, ngắn vượt lên, tùy theo âm giải nghĩa, đều nhân vào lưỡi và răng mà có sai khác. Như vậy nghĩa của chữ có thể khiến cho chúng sinh thanh tịnh được khẩu nghiệp. Phật tính của chúng sinh thì chẳng ví với văn tự như vậy, rồi nhiên hậu thanh tịnh. Vì sao vậy? Vì Phật tính vốn tịnh, tuy ở tại trong ấm, giới, nhập mà chẳng đồng với ấm, giới, nhập. Vậy nên chúng sinh đều nên qui y. Các vị Bồ tát đều do Phật tính nên nhìn chúng sinh bình đẳng, không có sai biệt. Vậy nên “bán tự” đối với các kinh sách, ký luận, văn chương mà lấy làm căn bản. Lại, ý nghĩa của “bán tự” đều là nguồn gốc của lời nói phiền não nên gọi là “bán tự”. “Mãn tự” (chữ đầy đủ) thì mới là căn bản của tất cả lời nói thiện pháp vậy. Ví như người thế gian làm hạnh ác thì gọi là bán nhân (nửa người). Người tu hạnh thiện thì gọi là mãn nhân (người đầy đủ). Như vậy tất cả kinh sách, ký luận đều nhân vào “bán tự” mà làm căn bản. Nếu nói rằng, Như Lai và chánh giải thoát vào với “bán tự” thì việc đó chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi văn tự. Vậy nên Như Lai đối với tất cả pháp không ngăn ngại, không nhiễm trước, thật sự được giải thoát. Những gì gọi là giải rõ nghĩa của chữ? - Có người biết Như Lai xuất hiện ở đời có thể diệt “bán tự”. Vậy nên gọi là giải rõ nghĩa của chữ. Nếu có người theo đuổi nghĩa của “bán tự” thì người đó chẳng biết tính Như Lai. Cái gì gọi là Vô tự nghĩa? Người gần gũi tu tập pháp bất thiện thì đó gọi là “Vô tự” (không chữ). Lại, vô tự là tuy có thể gần gũi tu tập thiện pháp nhưng chẳng biết Như Lai thường cùng vô thường, hằng cùng phi hằng và Pháp, Tăng hai báu, luật cùng phi luật, kinh cùng phi kinh, ma nói, Phật nói... Nếu có người chẳng thể phân biệt như vậy thì đó gọi là theo đuổi nghĩa “vô tự” vậy. Ta nay đã nói về sự theo đuổi nghĩa “vô tự” như vậy. Này thiện nam tử ! Vậy nên ông nay nên lìa khỏi “bán tự”, khéo lý giải “mãn tự”.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con cần phải giỏi học tự số ! Con nay đã gặp được bậc thầy Vô thượng, đã chịu lời dạy bảo ân cần của đức Như Lai !

Ðức Phật khen ngài Ca Diếp rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Người ưa Chính pháp thì nên học tập như vậy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22059)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15908)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14929)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18781)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14344)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13450)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11718)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13151)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16065)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10986)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16315)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11775)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17468)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12792)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13581)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12786)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14775)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16243)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13026)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12658)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12690)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14028)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14010)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16354)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12289)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14287)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11180)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10930)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13119)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13795)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13062)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13406)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12600)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10122)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13814)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10136)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13595)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16160)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11868)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12871)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11556)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10697)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10887)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12657)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10978)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12516)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11230)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant