Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm Nguyệt dụ

07 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 12855)
Phẩm Nguyệt dụ

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ chín

PHẨM NGUYỆT DỤ

PHẦN XV

Ðức Phật bảo rằng :

- Này Ca Diếp ! Ví như có người thấy trăng chẳng hiện thì nói rằng, trăng lặn mất, mà tác khởi tư tưởng mất. Nhưng tính trăng này thật ra không lặn mất mà chuyển đi hiện ở địa phương khác. Chúng sinh ở nơi trăng hiện đến kia lại gọi là trăng mọc ra mà tính của trăng này thật không có mọc ra. Vì sao vậy? Vì do núi Tu Di ngăn chận nên chẳng hiện. Trăng ấy, tính thường sinh (thường còn mãi) không có mọc ra hay lặn mất. Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cũng lại như vậy, xuất hiện ở ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc ở cõi Diêm phù đề thị hiệncha mẹchúng sinh đều gọi là sinh ở cõi Diêm phù đề. Hoặc ở cõi Diêm phù đề thị hiện Niết Bàn mà tính Như Lai thật ra không có Niết Bàn, nhưng các chúng sinh đều gọi là Như Lai thật sự Bát Niết Bàn ví như vầng trăng lặn mất. Này thiện nam tử ! Tính của Như Lai thật không sinh diệt nhưng vì hóa độ chúng sinh nên thị hiệnsinh diệt. Này thiện nam tử ! Như ở đây trăng tròn đầy mà phương khác thấy một nửa, ở đây trăng một nửa mà phương khác thấy tròn đầy. Người cõi Diêm phù đề nếu thấy trăng xuất hiện đầu tiên thì đều gọi là ngày một, khởi lên ý tưởng đầu tháng. Nếu họ thấy trăng tròn đầy thì đều gọi là ngày mười lăm, sinh ra ý thịnh mãn mà thật ra tính của trăng này thật không có vơi, đầy mà nhân núi Tu Di có tăng, giảm. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, ở cõi Diêm phù đề, hoặc hiện mới sinh, hoặc hiện Niết Bàn. Khi hiện thai sinh thì giống như trăng non đầu tháng, tất cả đều gọi là đồng tử. Mới sinh đi bảy bước như trăng ngày hai. Hoặc lại thị hiện vào thư đường thì như trăng ngày ba, thị hiện xuất gia như trăng ngày tám. Phóng ra ánh sáng đại trí tuệ vi diệu có thể phá ma chúng của vô lượng chúng sinh như trăng tròn đầy của ngày mười lăm. Hoặc lại thị hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm mà hiện Niết Bàn thì ví như nguyệt thực. Như vậy sự nhìn thấy của chúng sinh chẳng đồng, hoặc thấy trăng một nửa, hoặc thấy trăng tròn, hoặc thấy nguyệt thực... mà tính trăng này thật không tăng, giảm, xâm thực... luôn luôn là trăng tròn đầy. Thân Như Lai cũng lại như vậy. Vậy nên gọi là thường trụ bất biến. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như trăng tròn đầy thì tất cả đều hiện. Ở tại khắp nơi nơi, thành ấp, tụ lạc, núi đầm, trong nước, hoặc giếng, hoặc ao và những đồ đựng nước... tất cả đều hiện. Có các chúng sinh đi một trăm do tuần, trăm ngàn do tuần, thấy trăng luôn đi theo. Người phàm phu ngu si phát sinh nhớ tưởng rằng : “Ta vốn ở nhà tại thành ấp, thấy trăng như vậy. Nay lại ở đầm trống này thấy trăng đó. Ðó là trăng cũ hay là khác với trăng cũ”. Họ đều tác khởi ý niệm này : hình dạng trăng lớn, nhỏ. Hoặc nói rằng, như miệng vàng; hoặc nói rằng, như bánh xe, hoặc nói rằng, bằng bốn mươi chín do tuần. Tất cả đều thấy ánh sáng của trăng, hoặc thấy tròn trịa giống như cái mâm vàng... Tính của trăng đó là một mà đủ loại chúng sinh đều thấy hình tướng khác. Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, xuất hiện ở đời, hoặc có người, trời mà tác khởi ý niệm này : “Như Lai nay trụ ở trước ta”. Lại có súc sinh cũng sinh ra ý niệm này : “Ðức Như Lai nay trụ ở trước ta”. Hoặc có người câm điếc cũng thấy Như Lai có tướng câm điếc. Chúng sinh đủ loại, ngôn ngữ đều khác mà đều cho là Như Lai đồng ngôn ngữ với mình, cũng đều sinh ra ý niệm ở tại nhà cửa của mình, nhận sự cúng dường của mình. Hoặc có chúng sinh thấy thân Như Lai rộng lớn không lường, hoặc thấy nhỏ xíu. Hoặc có người thấy Phật là hình dáng Thanh Văn. Hoặc lại có người thấy là hình dáng Duyên Giác. Có những ngoại đạo lại đều nghĩ rằng : “Ðức Như Lai nay ở trong pháp của ta xuất gia học đạo”. Hoặc có chúng sinh lại nghĩ rằng : “Ðức Như Lai nay riêng vì một mình ta nên xuất hiện ở đời”. Thật tính của Như Lai ví như vầng trăng kia, tức là pháp thân, là thân vô sinh. Thân phương tiện thuận theo với đời mà thị hiện vô lượng nhân duyên nghiệp xưa ! Ở tại khắp nơi nơi Như Lai thị hiện có sinh giống như vầng trăng kia. Do ý nghĩa này nên Như Lai thường trụ không có biến dị. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như vua A tu la La Hầu La dùng tay ngăn che mặt trăng mà những người thế gian đều gọi là nguyệt thực. Vua A tu la thật ra chẳng thể ăn mặt trăng mà vua A tu la chỉ ngăn che ánh sáng của vầng trăng ấy nên vầng trăng này vẫn tròn trịa không có khuyết tổn. Chỉ dùng tay ngăn nên khiến cho biến mất, nếu khi vén tay lên thì thế gian đều gọi là trăng lại sinh trở lại, đều nói rằng, trăng đó chịu nhiều khổ não. Nhưng giả sử có hàng trăm ngàn vua A tu la cũng chẳng thể não hại được trăng đó. Như Lai cũng vậy, thị hiệnchúng sinh đối với Như Lai, đã sinh lòng thô ác, làm chảy máu thân Phật, khởi lên tội ngũ nghịch... cho đến Nhất xiễn đề. Vì chúng sinh đời vị lai nên thị hiện sự phá hoại Tăng, đoạn diệt pháp như vậy mà tạo tác nạn để lại. Giả sử vô lượng trăm ngàn những ma chẳng thể lấn lướt làm chảy máu thân đức Như Lai. Sở dĩ vì sao? Vì thân Như Lai không có máu thịt, gân, mạch, xương, tủy... Như Lai chân thật không có não hoại. Chúng sinh đều cho là Pháp, Tăng hủy hoại, Như Lai diệt tận mà tính Như Lai chân thật, không biến dị, không có phá hoại. Như Lai thuận theo thế gianthị hiện như vậy thôi. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như hai người đánh nhau. Hoặc dùng dao, gậy đả thương thân chảy máu, tuy đến chết nhưng chẳng khởi lên tư tưởng sát hại. Nghiệp tướng như vậy nhẹ mà chẳng nặng vì ở chỗ Như Lai vốn không có lòng sát hại. Tuy thân chảy máu nhưng nghiệp đó cũng vậy, nhẹ và chẳng nặng. Như Lai như vậy, vào đời vị lai, vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện nghiệp báo. Lại nữa, này thiện nam tử! Giống như vị lương y siêng dạy bảo con mình về căn bản của y phương : “Ðây là thuốc rễ, đây là thuốc thân (thân thảo dược), đây là thuốc hình sắc... đủ thứ tướng mạo của thuốc. Con phải giỏi biết !” Người con ấy kinh vâng sự dạy bảo của cha, tinh cần học tập, giỏi lý giải các thứ thuốc. Thời gian sau vị lương y đó thọ tận mạng chung, người con ấy gào khóc luyến mộ mà nói lên rằng : “Cha vốn dạy con, thuốc rễ như vầy, thuốc thân như vầy, thuốc hoa như vầy, sắc tướng như vầy...” Như Lai cũng vậy, vì hóa độ chúng sinh, thị hiện chế ra giới luật : cần phải như vầythọ trì chớ phạm phải tội ngũ nghịch, bài báng chính pháp đưa đến Nhất xiễn đề”. Vì đời vị lai sẽ khởi lên những việc đó nên ta thị hiện ra. Muốn khiến cho Tỳ kheo, sau khi Phật diệt độ nên tạo ra sự hiểu biết như vậy. Ðây là nghĩa thậm thâm của Khế kinh. Ðây là tướng khinh, trọng của giới luật. Ðây là pháp cú phân biệt A Tỳ Ðàm... giống như con của vị lương y kia.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Như người thấy trăng sáu tháng một lần nguyệt thực mà trên chư thiên thì trong giây lát đã thấy nguyệt thực. Vì sao vậy? Vì ngày của trời kia dài, của nhân gian ngắn. Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy, trời người đều cho là Như Lai thọ mạng ngắn như người trời kia trong giây lát đều thấy nguyệt thực. Như Lai lại ở trong giây lát, thị hiện trăm ngàn vạn ức lần Niết Bàn, đoạn trừ ma phiền não, ma ấm, ma chết. Vậy nên trăm ngàn vạn ức thiên ma đều biết Như Lai vào Bát Niết Bàn. Lại nữa, Như Lai thị hiện vô lượng trăm ngàn nhân duyên nghiệp đời trước, thuận theo đủ tính của thế gian. Như Lai đã thị hiện vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Vậy nên Như Lai thường trụ không biến dị. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như trăng sáng chúng sinh ưa nhìn thấy (Lạc Kiến). Vậy nên xưng hiệu của trăng là Lạc Kiến. Chúng sinh nếu có tham dục sân nhuế, ngu si thì chẳng được xưng là Lạc Kiến. Như Lai, như vậy tính ấy thuần thiện, thanh tịnh, không cấu bẩn, là rất có thể xưng là Lạc Kiến. Chúng sinh ưa pháp nhìn Như Lai không chán còn người ác tâm chẳng vui lòng nhìn ngắm. Do ý nghĩa đó nên nói rằng, Như Lai ví như trăng sáng. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mặt trời mọc có ba thời điểm khác. Ðó là mùa xuân, mùa hạmùa đông. Ngày mùa đông thì ngắn, ngày mùa xuân thì trung bình còn ngày mùa hạ thì rất dài. Như Lai cũng vậy, đối với ba ngàn đại thiên thế giới này là thọ mạng ngắn ngủi và vì các Thanh Văn thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Những người ấy thấy thế rồi đều cho là thọ mạng của Như Lai ngắn ngủi ví như ngày mùa Ðông. Phật vì các vị Bồ tát thị hiện thọ mạng trung bình, hoặc đến một kiếp hay bớt một kiếp ví như ngày của mùa Xuân. Chỉ có Phật nhìn thấy thọ mạng ấy của Phật là vô lượng, ví như ngày của mùa Hạ. Này thiện nam tử ! Lời nói của Như Lai, giáo pháp Phương Ðẳng Ðại Thừa vi mật, thị hiệnthế gian, mưa xuống đại pháp vũ... Vào đời vị lai, nếu có người có thể hộ trì Kinh điển đó mà khai thị, phân biệt, lợi ích cho chúng sinh thì phải biết hạng người đó là những Bồ tát chân thật ví như lúc thịnh hạ, trời tuông mưa cam lộ. Nếu có người Thanh Văn, Duyên Giác nghe giáo lý vi mật của Phật Như Lai thì ví ngày mùa Ðông gặp nhiều lạnh lẽo. Người Bồ tát, nếu nghe lời dạy bảo vi mật, Như Lai thường trụ, tính không biến dị như vậy thì ví như ngày mùa Xuân, mầm chồi nảy nở. Nhưng mà tính Như Lai thật sự không có dài, ngắn, vì thế gian nên thị hiện như vậy thôi. Ðó tức là pháp tính chân thật của các đức Phật. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mọi vì sao, ban ngày thì chẳng hiện mà mọi người đều cho là ban ngày sao diệt mất nhưng kỳ thật chẳng mất mà sở dĩ chẳng hiện là vì ánh sáng mặt trời làm lòa đi. Như Lai cũng vậy, Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể được thấy, giống như người đời chẳng thấy sao vào ban ngày. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như trong bóng tối mặt trời, mặt trăng biến mất. Người ngu nói rằng, mặt trời, mặt trăng mất tiêu, mà thật ra mặt trời, mặt trăng đó không mất tiêu. Khi Chánh pháp của Như Lai diệt tận, Tam Bảo biến mất cũng lại như vậy, chẳng phải diệt mất vĩnh viễn. Vậy nên phải biết là Như Lai thường trụ, không có biến dị. Vì sao vậy? Vì chân tính của Tam Bảo chẳng bị sự ô nhiễm của những cấu bẩn.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như đêm không trăng, sao Tuệ xuất hiện. Ánh sáng sao ấy sáng chói, xuất hiện chốc lát lại biến mất. Chúng sinh thấy sao ấy rồi sinh ra tư tưởng chẳng tốt lành. Các Bích Chi Phật cũng lại như vậy, xuất hiện ở đời không Phật, chúng sinh thấy rồi đều cho là Như Lai chân thật. Sau khi những vị ấy diệt họ đều sinh tư tưởng ưu bi mà thân Như Lai thật chẳng diệt độ như mặt trời, mặt trăng kia không có diệt mất.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như mặt trời mọc thì mọi sương mù đều tan. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này cũng lại như vậy, xuất hiện ở đời, nếu có chúng sinh một lần nghe Kinh rồi thì có thể diệt trừ hết tất cả những tội nghiệp ác vô gián. Cảnh giới thậm thâm Ðại Niết Bàn đó chẳng thể nghĩ bàn, khéo nói tính vi mật của Như Lai. Do ý nghĩa đó nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân.v.v... nên đối với Như Lai sinh tâm thường trụ, không có biến dị, Chánh pháp chẳng đoạn, tăng bảo chẳng diệt. Vậy nên cần phải tu nhiều phương tiện, siêng học Kinh điển đó thì người này chẳng bao lâu sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên Kinh này gọi là sự thành tựu của vô lượng công đức, cũng gọi là Bồ Ðê chẳng thể cùng tận. Do chẳng cùng tận nên được xưng là Ðại Bát Niết Bàn; có ánh sáng thiện nên giống như ngày mùa hạ; thân vô biên nên gọi là Ðại Niết Bàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33150)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6532)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11251)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30427)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7966)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12163)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11583)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12790)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34727)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52247)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10698)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10456)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13063)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21817)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9605)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7110)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10380)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12764)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16215)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16514)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13839)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16564)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13790)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14306)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11732)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11499)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12614)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14984)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13120)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14520)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20664)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13203)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10929)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20680)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14339)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20352)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17641)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31850)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12009)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant