Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển thứ 28

08 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 13063)
Quyển thứ 28

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ 28

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA: BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG

 Phần thứ IV : - Lúc bấy giờ, lòng của Lục sư ngoại đạo sinh ra ganh ghét nên chúng đều tập hợp lại đi đến chỗ vua Ba Tư Nặc mà nói rằng :

- Thưa đại vương ! Ngài phải biết, cảnh đất nước của vua thanh bình, nhàn tịnh, chân thật là chỗ trụ dừng của người xuất gia. Vậy nên chúng tôi vì việc ấy mà đi đến đây. Thưa đại vương ! Ngài dùng chính pháp cai trị, vì dân trừ hoạn nạn. Ông Sa môn Cù Ðàm tuổi còn ấu trĩ, ngày học lại cạn, đạo thuật không thi thố. Ðất nước này trước có những bậc túc đức kỳ cựu, nhưng ông ấy tự cậy vào dòng giống vua, chẳng sinh lòng cung kính. Nếu là dòng giống vua thì theo pháp nên cai trị dân, còn như ông ấy xuất gia thì nên cung kính bậc túc đức. Ðại vương giỏi nghe biết. Ông Sa môn Cù Ðàm chân thật chẳng sinh ra trong dòng dõi vua. Sa môn Cù Ðàm nếu có cha mẹ thì vì sao cướp đoạt cha mẹ người khác ? Thưa đại vương ! Trong Kinh của ta nói rằng, qua một ngàn năm rồi có một điều quái lạ, vật huyễn hóa xuất hiện, là gọi ông Sa môn Cù Ðàm đó. Vậy nên phải biết là ông Sa môn Cù Ðàm không cha không mẹ. Nếu có cha mẹ thì làm sao ông nói rằng, các pháp Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, Vô tác, Vô thọ. Ông dùng huyễn thuật lừa dối mê hoặc chúng sinh, kẻ ngu tín thọ, người trí bỏ đi. Thưa đại vương ! Phàm là nhân vương (vua loài người) thì trời xuống làm cha mẹ. Như cái cân, như đất, như gió, như lửa, như đường, như sông, như cầu, như đèn, như mặt trời, như mặt trăng... cứ như pháp mà quyết đoán sự việc, chẳng chọn lựa kẻ oán, người thân. Ông Sa môn Cù Ðàm chẳng cho tôi sống, theo chỗ tôi đi mà truy đuổi cha bỏ. Nguyện xin đại vương cho phép tôi cùng ông đó thi đấu đạo lực. Nếu ông đó thắng tôi thì tôi sẽ thuộc về ông đó. Nếu tôi thắng ông đó thì ông đó sẽ thuộc về tôi.

Nhà vua nói rằng :

- Thưa đại đức ! Các ông mỗi mỗi đều tự có pháp tu hành, chỗ dừng ở cũng đều chẳng đồng. Ta nay nhất định biết đức Như Lai Thế Tôn đối với các ông không phương hại gì !

Lục sư đáp rằng :

- Sao gọi là không phương hại ? Ông Sa môn Cù Ðàm dùng phép huyễn thuật dụ dỗ lừa dối mọi ngườiBà la môn qui phục hết rồi. Nhà vua nếu cho phép tôi cùng ông ấy thi đấu đạo lực thì thiện danh của nhà vua sẽ lưu bố tám phương. Như ông ấy chẳng thi đấu thì tiếng xấu đầy đường !

Nhà vua nói rằng :

- Này đại đức ! Các ông chưa biết đạo lực của đức Như Lai uy thần lồng lộng nên cầu xin thi đấu ! Nếu các ông định biết rồi thì sợ chẳng thể cầu xin đâu !

- Thưa đại vương ! Ngài nay đã thọ nhận sự huyễn hóa của ông Cù Ðàm rồi sao ? Nguyện xin Ðại vương quan tâm cho phép và giám sát, chớ khinh chúng tôi ! Việc chưa rõ mà nói suông chẳng bằng kiểm nghiệm bằng sự thật !

Nhà vua nói rằng :

- Hay thay ! Hay thay !

Bọn Lục sư vui mừng mà ra về.

Vua Ba Tư Nặc liền ra lệnh nghiêm chỉnh xa giá đi đến chỗ của ta, đầu mặt lễ kính, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lui về ngồi một bên mà bạch với ta rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Lục sư hướng đến Như Lai cầu thi đấu đạo lực mà con chẳng lượng độ đã dám hứa với họ rồi !

Ðức Phật dạy rằng :

- Này đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Chỉ lại ở nước này, khắp nơi nơi sẽ tạo lập Tăng phường. Vì sao vậy ? Vì nếu ta cùng bọn thi đấu thần lực thì trong chúng đó, người chịu sự giáo hóa nhiều lên mà chỗ này nhỏ hẹp thì làm sao dung thọ hết.

Này thiện nam tử ! - Ðức Phật nói với Bồ tát Sư Tử Hống - Vào lúc bấy giờ, ta vì bọn Lục sư nên từ ngày mùng một đến ngày mười lăm thị hiện thần thông biến hóa rất hy hữu. Ðang khi đó thì vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vô lượng chúng sinh ở chỗ Tam Bảo phát sinh niềm tin, chẳng nghi ngờ. Số đồ chúng của Lục sư ấy nhiều vô lượng, phá tâm tà kiến, theo chánh pháp xuất gia. Vô lượng chúng sinh ở trong đạo Bồ Ðề được tâm bất thoái. Vô lượng chúng sinh được Ðà la ni, các tam muội môn. Vô lượng chúng sinh được từ quả Tu đà hoàn đến quả A la hán.

Lúc bấy giờ, nội tâm của Lục sư xấu hổ, cùng nhau vay quanh kéo đến thành Bà Chỉ Ða, dạy nhân dân ở đó tín thọ tà pháp là : Sa môn Cù Ðàm chỉ nói về việc rỗng không. Này thiện nam tử ! Khi ta vì mẹ ở dưới cây Ba-lợi-chất-đa trên trời Ðao Lợi an cư nói pháp thì lúc đó tâm trạng của bọn Lục sư rất vui mừng, xướng lên rằng : “Hay thay! Huyễn thuật của ông Cù Ðàm nay đã diệt mất !” Chúng lại dạy cho vô lượng vô số chúng sinh tăng trưởng tà kiến. Lúc bấy giờ, vua Tần Bà Ta La vua Ba Tư Nặcbốn bộ chúng bạch ông Mục Kiền Liên rằng : “Thưa đại đức ! Cõi Diêm phù đề này tà kiến tăng trưởng, chúng sinh có thể lo làm những việc rất đen tối! Nguyện xin đại đức đi lên cõi trời đó, cúi đầu trước đấng Thế Tôn và bạch như lời chúng tôi rằng : “Ví như con trâu nghé mới sinh chưa lâu, nếu chẳng được sữa thì nhất định phải chết không gì nghi ngờ. Chúng sinh chúng con cũng lại như vậy, nguyện xin đức Như Lai thương xót chúng sinh trở về đến trụ nơi đây ?”. Ông Mục Kiền Liên lặng thinh mà hứa, rồi trong khoảnh khắc như vị đại lực sĩ co duỗi cánh tay, ông đi lên cõi trời đó, đến chỗ đức Thế Tôn, bạch đức Phật rằng : “Bốn chúng sở hữu trong cõi Diêm phù đề khát khao, ngưỡng mộ đức Như Lai, nhớ nghĩ mong gặp nghe pháp ! Vua Tần Bà Ta La, vua Ba Tư Nặcbốn chúng.v.v... cúi đầu dưới chân. Chúng sinh sở hữu của cõi Diêm phù đề này, tà kiến tăng trưởng, hành động rất đen tối, rất đáng thương xót. Ví như con trâu nghé sinh ra chưa lâu, nếu chẳng được sữa thì nhất định phải chết, chẳng nghi ngờ gì ! Chúng con cũng vậy, nguyện xin đức Như Laichúng sinhtrở lại ở trong cõi Diêm phù đề này !”. Phật bảo ông Mục Kiền Liên rằng : “Ông hãy mau trở về cõi Diêm phù đề bảo các vị quốc vương và bốn bộï chúng là lui về sau bảy ngày, ta sẽ trở xuống ! Nhưng vì bọn Lục sư nên ta lại phải đến thành Bà Chỉ Ða kia”. Qua bảy ngày rồi, Phật cùng với Thích thiên, Phạm thiên, Ma thiên, vô lượng thiên tử và tất cả trời người của hội Thủ Ðà, vay quanh trước sau đi đến thành Bà Chỉ Ða, rống tiếng Ðại sư tử mà nói lên rằng : “Chỉ độc nhất trong pháp của ta mới có Sa mônBà la môn ! Tất cả các pháp vô thường vô ngã còn Niết Bàn thì tịch tịnh lìa các lỗi hoạn. Nếu nói rằng, pháp khác cũng có Sa mônBà la môn, có Thường, có Ngã, có Niết Bàn thì không có điều này. Lúc bấy giờ, vô lượng vô biên chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Khi đó Lục sư đều nói với nhau rằng : “Nếu trong pháp ta thật khôngSa mônBà la môn thì làm sao mà được sự cúng dường của thế gian. Ðến đây thì bọn Lục sư lại tụ tập nhau đi dến Tỳ Xá Ly.

Này thiện nam tử ! Vào một thuở, ta trụ ở vùng rừng Am La của Tỳ Xá Ly, có người con gái Am La biết ta ở trong đó nên muốn đến chỗ của ta. Vào lúc ấy, ta bảo các Tỳkheo phải quán niệm xứ, giỏi tu trí tuệ, theo việc tu tập tâm chớ buông lung (phóng dật) ! Sao gọi là quán niệm xứ ? Nếu có Tỳkheo quan sát nội thân chẳng thấy ngã và cả ngã sở, quan sát ngoại thânnội ngoại thân chẳng thấy ngã và cả ngã sở, quan sát thọ tâm pháp cũng lại như vậy thì đó gọi là niệm xứ. Sao gọi là tu tập trí tuệ ? Nếu có Tỳkheo chân thật mà thấy khổ, tập, diệt, đạo thì đó gọi là Tỳkheo tu tập trí tuệ. Sao gọi là tâm chẳng phóng dật ? Nếu có Tỳkheo niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm trời thì đó gọi là Tỳkheo tâm chẳng phóng dật. Ngay khi đó thì người con gái Am La liền đến chỗ của ta đầu mặt làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, tu kính xong rồi, lui về ngồi một phía. Này thiện nam tử ! Ta vào lúc ấy, vì người con gái Am La đúng theo yêu cầu mà nói pháp. Người con gái này nghe rồi liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Trong thành đó có năm trăm Lê xa tử đi đến chỗ ta đầu mặt làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, tu kính xong rồi, lui về ngồi một phía. Ta lại vì các Lê xa tử theo đúng yêu cầu mà nói pháp như vầy : “Này các thiện nam tử ! Bàn về phóng dật có năm việc quả báo. Những gì là năm ? Một là chẳng được tự tại về tài lợi. Hai là tiếng xấu lưu bố ra bên ngoài. Ba là chẳng ưa ban cho bần cùng thiếu thốn. Bốn là chẳng ưa thấy bốn chúng. Năm là chẳng được thân chư thiên. Này các thiện nam tử ! Nhân chẳng phóng dật có thể sinh ra pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Nếu có người muốn được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nên phải siêng tu pháp chẳng phóng dật. Phàm người phóng dật lại được mười ba quả báo. Những gì là mười ba ? Một là ưa vì thế gian tác nghiệp. Hai là ưa nói lời nói vô ích. Ba là thường ưa nằm ngủ nghỉ lâu. Bốn là ưa nói việc thế gian. Năm là thường ưa gần gũi bạn xấu. Sáu là lười biếng uể oải. Bảy là thường bị sự khinh rẻ của người khác. Tám là tuy có điều nghe biết nhưng lại liền quên mất. Chính là ưa ở chỗ biên địa. Mười là chẳng thể điều phục các căn. Mười một là ăn chẳng biết đủ. Mười hai là chẳng ưa không tịch. Mười ba là việc thấy chẳng chính. Này thiện nam tử ! Phàm người phóng dật tuy được gần Phật và đệ tử của Phật nhưng còn rất là xa !”. Các Lê xa tử bạch rằng: “Chúng con tự biết là người phóng dật ! Vì sao vậy ? Vì như chúng con chẳng phóng dật thì đấng Như Lai Pháp Vương sẽ ra khỏi cõi của con !”. Trong đại hội có con của một Bà la môn tên là Vô Thắng nói với các Lê xa rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Ðúng như lời ông nói ! Vua Tần Bà Ta La đã thu hoạch đại lợi. Ðức Như Lai Thế Tôn xuất hiện ở đất nước vua ấy giống như ao lớn mọc lên hoa sen đẹp, tuy mọc lên tại trong nước nhưng nước chẳng thể làm dơ bẩn. Này các Lê xa tử ! Ðức Phật cũng như vậy, tuy sinh ở nước đó nhưng chẳng bị sự trệ ngại của pháp thế gian. Các đức Phật Thế Tôn không ra không vào nhưng vì chúng sinh nên xuất hiện ở đời mà chẳng bị sự trệ ngài của pháp thế gian. Các ông tự đam mê phóng túng theo năm dục, chẳng biết thân cận đến chỗ đức Như Lai nên mới gọi là người phóng túng, chứ chẳng phải đức Phật xuất hiện ở nước Ma Dà Ðà mà gọi là phóng dật vậy. Vì sao vậy ? Vì đức Như Lai Thế Tôn giống như mặt trời mặt trăng chẳng phải vì một người, hai người mà ra đời !” Các Lê xa nghe lời nói đó rồi liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, họ lại nói lên rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Thưa đồng tử Vô Thắng ! Ông khéo nói lời nói thiện diệu như vậy !”. Các Lê xa, từng người từng người đều cởi một cái áo đang mặc trên người, đem hiến thí cho đồng tử Vô Thắng. Vô Thắng nhận rồi chuyển dâng lên cho ta và lại nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Con từ Lê xa được số áo này, nguyện xin đức Như Lai thương xót chúng sinh mà nhận sự hiến dâng của con !” Vào lúc ấy, ta thương đồng tử Vô Thắng đó nên liền nạp thọ. Các Lê xa đồng thời chắp tay nói lên lời như vầy : “Nguyện xin đức Như Lai ở đất nước này mà an cư một thời gian, nhận sự cúng dường nhỏ nhoi của con !” Ta mặc nhiên nhận lời mời của các Lê xa.

Lúc đó, bọn Lục sư nghe việc như vậy rồi thì thầy trò cùngnhau đi đến thành Ba La Nại. Bấy gờ, ta lại sang thành Ba La Nại, trụ ở bên dòng sông Ba La. Ở Ba La Nại có con ông trưởng giả tên là Bảo Xứng đam mê phóng túng theo năm dục mà chẳng biết chẳng phải là thường. Do ta đến nên ông ấy tự nhiên được pháp Bạch Cốt quán. Ông thấy điện đường, nhà cửa, cung nhân, thể nữ đều là xương trắng, lòng sinh ra kinh sợ như thấy dao bén, rắn độc, như giặc, như lửa nên liền ra khỏi nhà đi đến chỗ ta. Theo đường đi ông kêu lên rằng : “Ông Sa môn Cù Ðàm ơi ! Tôi nay như bị sự truy đuổi của giặc rất là kinh sợ ! Nguyện xin được ngài cứu tế cho !”. Phật nói rằng: “Này thiện nam tử ! Phật Pháp Tăng yên ổn không sợ !”. Con ông trưởng giả nói rằng : “Nếu trong Tam Bảo không có sự sợ hãi thì con hôm nay cũng sẽ được không sở úy!”. Ta liền cho ông ấy xuất gia làm đạo. Con ông trưởng giả lại có năm mươi người đồng bạn, từ xa nghe tin bạn Bảo Xứng chán lìa xuất gia liền chung hòa thuận cùng nhau xuất gia.

Bọn Lục sư nghe rồi, đắp đổi lại đi đến đại thành Chiêm Bà. Tất cả nhân dân nước Chiêm Bà đều chung phụng sự đồ chúng Lục sư, ban đầu chưa nghe tên Phật Pháp Tăng, có nhiều những người tạo tác nghiệp cực ác. Vào lúc ấy, ta vì chúng sinh nên đến thành Chiêm Bà. Trong thành đó có ông Ðại trưởng giả không có người nối dõi nên cúng dường phụng sự Lục sư để cầu con. Về sau chẳng bao lâu, vợ ông ấy mang thai, ông trưởng giả biết rồi đi đến chỗ của Lục sư, vui mừng mà nói rằng : “Vợ tôi mang thai là trai hay gái vậy ?” Lục sư đáp rằng: “Sinh ra nhất định là gái !”. Ông trưởng giả nghe rồi, lòng sinh sầu não. Lại có người bạn đến hỏi ông trưởng giả : “Vì sao mà sầu não đến như vậy ?”. Ông trưởng giả đáp rằng : “Vợ tôi mang thai chưa biết trai hay gái nên đến hỏi Lục sư thì Lục sư thấy nói là như pháp tướng của ta, sinh ra nhất định là con gái. Tôi nghe lời nói này rồi tự nghĩ mình tuổi già, của cải giàu có không lường, như đứa bé ấy chẳng phải là con trai thì không biết phú chúc (giao phó lại) cho ai nên tôi buồn”. Người bạn lại nói rằng : “Ông không trí tuệ, trước chẳng nghe sao? Anh em ông Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếpđệ tử của ai ? Của Phật hay là của Lục sư vậy ? Nếu Lục sưNhất Thiết Trí thì ông Ca Diếp vì sao bỏ đi làm đệ tử của đức Phật. Lại, ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên.v.v... và các quốc vương như Tần Bà Ta La.v.v... các phu nhân của vua như Mạt Lợi phu nhân.v.v... trưởng giả các nước như ông Tu Ðạt Ða.v.v... Những người như vậy chẳng phải là đệ tử của đức Phật sao ? Khoáng dã quỉ thần, vua A Xà Thế, vua say Hộ Tài, Ương Quật Ma La, lòng ác hừng hực muốn hại mẹ mình.... Những bọn như vậy chẳng phải đã được đức Như Lai điều phục rồi sao ? Thưa trưởng giả ! Ðức Như Lai Thế Tôn đối với tất cả pháp thấy biết không ngăn ngại nên gọi là Phật, lời nói ra không hai nên gọi là Như Lai, đã đoạn trừ phiền não nên gọi là A La Ha. Lời nói của đức Thế Tôn nhất định không có hai, còn Lục sư chẳng vậy nên làm sao có thể tin được ?. Ðức Như Lai nay ở gần tại đây, nếu muốn biết thật thì phải đến chỗ đức Phật!”. Lúc bấy giờ ông trưởng giả liền cùng với người đó đi đến chỗ của ta, đầu mặt làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, chắp tay, quì dài mà bạch rằng: “Thưa đức Thế Tôn ! Ngài đối với các chúng sinh bình đẳng không hai, oán thân một tướng ! Con bị sự trói buộc của ái kết nên đối với oán thân chưa thể không hai, nay con muốn hỏi đức Như Lai việc đờithân tâm tự thẹn và sợ nên chưa dám phát ngôn ! Thưa đức Thế Tôn ! Vợ con mang thai, thầy tướng Lục sư nói rằng, sinh ra nhất định là con gái, việc này ra sao ?”. Phật nói rằng : “Này trưởng giả! Vợ ông mang thai là con trai, không gì nghi ngờ ! Ðứa bé ấy sinh ra rồi thì phước đức không ai sánh kịp!”. Bấy giờ, ông trưởng giả nghe lời nói này rồi, phát sinh đại hoan hỷ liền lui ra, quay về nhà. Bấy giờ, bọn Lục sư nghe ta huyền ký đứa bé sinh ra nhất định là con trai có phước đức lớn thì lòng họ phát sinh ganh ghét, dùng quả Am La hòa hợp với thuốc độc, mang đến nhà ông trưởng giả ấy và nói với ông rằng : “Giỏi thay ! Ông Cù Ðàm khéo nói tướng của con ông!” Vợ ông tới tháng sinh có thể uống thứ thuốc này ! Uống thuốc này rồi thì đứa trẻ đoan chính, sản phụ không hoạn nạn !”. Ông trưởng giả vui mừng nhận thứ thuốc độc ấy, đem cho vợ mình bảo uống. Vợ ông trưởng giả uống xong liền chết, bọn Lục sư vui mừng đi cùng khắp thành thị, cao giọng xướng lên rằng: “Ông Sa môn Cù Ðàm huyền ký cho vợ ông trưởng giả kia sẽ sinh ra con trai. Ðứa trẻ ấy phước đức cả thiên hạ không ai hơn. Nay đứa trẻ chưa sinh mà người mẹ đã mất mạng”. Bấy giờ ông trưởng giả lại ở chỗ ta, sinh lòng chẳng tin, liền y theo phép thế gian tẩn liệm vào áo quan, đưa đến bên ngoài thành, chất nhiều củi khô, dùng lửa đốt. Ta dùng đạo nhãn thấy rõ việc này, ra lệnh cho ông A Nan lấy áo lại cho ta, ta muốn đến chỗ đó tiêu diệt tà kiến. Vua trời Tỳ Sa Môn bảo đại tướng Ma Ni Bạt Ðà rằng : “Ðức Như Lai hôm nay muốn đến nơi tha ma kia (nghĩa địa). Ông hãy mau đến đó dọn quét sạch sẽ, làm bằng phẳng, đặt tòa ngồi sư tử, tìm kiếm hương hoa đẹp mà trang nghiêm đất ấy”. Lúc bấy giờ, bọn Lục sư từ xa thấy ta đến, đều nói với nhau rằng : “Ông Sa môn Cù Ðàm đến bãi tha ma này, muốn ăn thịt sao ?”. Bấy giờ có nhiều người chưa được pháp nhãn, các Ưu bà tắc đều ôm lòng thẹn sợ mà bạch với ta rằng : “Người đàn bà đó đã chết rồi, nguyện xin ngài chẳng nên đến đó !”. Lúc ấy ông A Nan nói với mọi người rằng : “Hãy đợi giây lát ! Chẳng bao lâu nữa, đức Như Lai sẽ siển khai rộng rãi cảnh giới rộng rãi của chư Phật !”. Khi ta đến rồi, ngồi vào tòa sư tử thì ông trưởng giả nói khó với ta rằng : “Lời nói không hai nên gọi là Thế Tôn, nay người mẹ đã chết mất thì làm sao sinh con đây ?”. Ta nói rằng : “Này trưởng giả ! Vào lúc ấy, ta chẳng thấy ông hỏi về mạng người mẹ ngắn hay dài mà chỉ hỏi thai đang mang là trai hay gái thôi ! Các đức Phật Như Lai lời nói ra không hai ! Vậy nên ông phải biết, nhất định được con trai !” Lúc đó tử thi bị lửa đốt cháy, bụng nứt ra, đứa con từ trong đó xuất hiện ngồi ngay thẳng trong đám lửa giống như chim uyên ương ở trên đài hoa sen. Bọn Lục sư thấy rồi lại nói lên rằng : “Yêu mị thay ! Ông Cù Ðàm khéo làm huyễn thuật !”. Ông trưởng giả thấy rồi, lòng lại vui mừng, quở trách bọn Lục sư : “Nếu nói là huyễn thì sao các ông chẳng làm !”. Ta vào lúc ấy liền bảo ông Kỳ Bà : “Ông đến trong đám lửa bồng đứa bé đó lại đây !”. Ông Kỳ Bà sắp đi đến thì bọn Lục sư trước đã mở lời nói với ông Kỳ Bà rằng : “Việc tạo tác huyễn thuật của ông Cù Ðàm chưa chắc là thường vậy. Hoặc có thể hay chẳng thể bồng ra, nếu đứa trẻ ấy chẳng thể thoát được thì có thể ông bị cháy hại lay ! Ông nay làm sao có thể tín thọ lời nói của ông ấy ?”. Ông Kỳ Bà đáp rằng : “Ðức Như Lai sai vào địa ngục A Tỳ, lửa dữ ở đó còn chẳng thiêu đốt huống là lửa của thế gian !”. Bấy giờ, ông Kỳ Bà vào trước đám lửa như là vào trong nước dòng sông mát mẻ, bồng đem đứa trẻ đó trở về đến chỗ của ta và trao đứa bé cho ta. Ta nhận đứa bé rồi bảo ông trưởng giả rằng : “Thọ mạng của tất cả chúng sinh bất định như bọt trên nước. Chúng sinh nếu có quả báo nghiệp nặng thì lửa chẳng thể đốt, độc chẳng thể hại. Quả báo nghiệp của đứa bé này chẳng phải là sự tạo tác của ta !”. Ông trưởng giả bạch rằng : “Hay thay ! Thưa đức Thế Tôn ! Ðứa trẻ này nếu được tận thiên mệnh của nó thì nguyện xin đức Như Lai vì nó mà đặt tên cho !”

Ðứa Phật dạy rằng :

- Ðứa trẻ này sinh ra trong lửa mạnh mà lửa gọi là thọ đề nên tên là Thọ Ðề !

Lúc bấy giờ, trong chúng hội thấy thần hóa của ta, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, bọn Lục sư đi cùng khắp sáu thành mà chẳng được dừng chân, cúi đầu xấu hổ, lại đi đến thành Câu Thi Na này. Ðã đến đây rồi, họ xướng lên rằng : “Mọi người phải biết rằng, ông Sa môn Cù Ðàm là một nhà đại huyễn thuật, lừa dối mê hoặc thiên hạ khắp sáu ngôi đại thành. Ví như nhà huyễn thuật huyễn tác bốn thứ binh như là binh xe, binh ngựa, binh voi, binh bộ. Lại nữa, ông huyễn tác ra đủ thứ chuỗi ngọc, thành quách, cung điện, nhà cửa, sông ao, cây cối.... ông Sa môn Cù Ðàm cũng lại như vậy, huyễn tác thân vua rồi vì vua nói pháp. Hoặc làm ra thân Sa môn, Bà la môn, thân nam, thân nữ, thân lớn, thân nhỏ, hoặc làm ra thân súc sinh, thân quỉ thần. Ông ấy hoặc nói vô thường, hoặc nói có thường, hoặc nói khổ hay nói vui, hoặc nói có ngã hay nói không ngã, hoặc nói có tịnh hay nói không tịnh, hoặc nói có hay nói không... Những điều đó là hư vọng nên gọi là huyễn. Ví như nhân hạt, tùy theo hạt mà được trái, ông Sa môn Cù Ðàm cũng lại như vậy, người mẹ sinh ra ông ấy là Ma Gia đã là huyễn thì ông ấy là con chẳng được coi là chẳng phải huyễn. Ông Sa môn Cù Ðàm không có tri kiến chân thật. Các thầy Bà la môn từng trải nhiều năm tháng, tu tập khổ hạnh, hộ trì cấm giới, còn nói ra chưa có tri kiến chân thật. Huống gì là ông Cù Ðàm tuổi trẻ, học cạn, chẳng tu khổ hạnh thì làm sao mà có tri kiến chân thật ? Nếu ông ấy có thể đủ đầy bảy năm khổ hạnh, vẫn thấy còn chẳng nhiều, huống là việc tu tập chẳng trọn sáu năm ? Người ngu không trí mới tín thọ lời dạy của ông ấy. Như bậc thầy lớn về huyễn thuật lừa dối mê hoặc kẻ ngu, ông Sa môn Cù Ðàm cũng lại như vậy”. Này thiện nam tử ! Như vậy, bọn Lục sư ở trong thành lớn này vì chúng sinh tăng trưởng tà kiến. Này thiện nam tử ! Ta thấy việc này, lòng sinh thương xót, dùng thần lực ấy triệu thỉnh những Ðại Bồ tát trong mười phương vân tập về khu rừng này, đầy dẫy cùng khắp cả bốn mươi do tuần. Hôm nay, ở trong rừng này ta rống tiếng đại sư tử. Này thiện nam tử ! Tuy đối với “không xứ” mà có nhiều lời nói thì chẳng được gọi là Sư Tử Hống. Nhưng ở trong đại chúng gồm những người trí này thì chân thật được gọi là Ðại Sư Tử Hống. Sư Tử Hống là nói : Tất cả pháp đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh và chỉ nói : Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh.

Lúc bấy giờ, bọn Lục sư lại nói lời này : “Nếu ông Cù Ðàm có ngã thì ta cũng có ngã. Sở dĩ nói ngã là thấy thì gọi là ngã. Thưa ông Cù Ðàm, ví như có người hướng về trông thấy vật thì ngã cũng như vậy. Hướng là dụ cho mắt, thấy là dụ cho ngã”. Ðức Phật bảo : “Này Lục sư ! Nếu nói rằng, thấy gọi là ngã thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì sự dẫn dụ của các ông là nhân hướng thấy thì con người ở tại một hướng, sáu căn đều sử dụng. Nếu nhất địnhngã nhân mắt thấy thì sao chẳng như trong một căn đó đều dò tìm các trần ? Nếu trong một căn chẳng thể cùng một lúc nghe thấy sáu trần thì phải biết là không ngã. Sự dẫn dụ “hướng”, tuy trải qua trăm năm thấy thì sự thấy của nhân không khác và nhãn căn ngần ấy năm già đi thì căn thục (chín) cũng nên không khác. Con người hướng khác nên thấy trong, thấy ngoài. Nhãn căn nếu vậy thì cũng nên trong ngoài cùng một lúc đều thấy. Nếu chẳng thấy thì sao gọi là có ngã ?”. Bọn Lục sư lại nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Nếu không Ngã thì ai có thể thấy vậy?”. Ðức Phật nói rằng : “Có hình sắc, có ánh sáng, có tâm, có mắt, bốn thứ này hòa hợp nên gọi là thấy. Trong đó thật không có người thấy và cái để thấy. Chúng sinh điên đão nói rằng, có người thấy và cả cái để thấy. Do nghĩa này nên sở kiến tất cả chúng sinhđiên đảo còn sở kiến của các đức Phật, Bồ tátchân thật. Này Lục sư ! Nếu nói sắc là ngã thì điều đó cũng chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì sắc thật chẳng phải ngã. Sắc nếu là ngã thì chẳng nên có được hình mạo xấu xí! Vì sao lại có bốn dòng họ sai biệt mà chẳng đều một dòng Bà la môn vậy ? Vì sao lệ thuộc người khác chẳng được tự tại, các căn khiếm khuyết, sinh ra chẳng đầy đủ ?. Vì sao chẳng làm thân chư thiên mà thọ đủ thứ các thân địa ngục, súc sinh, ngã quỉ?. Nếu chẳng thể tạo tác tùy ý thì phải biết nhất định không có ngã vậy. Do không ngã nên gọi là vô thườngvô thường nên khổ. Do khổ nên là rỗng không mà rỗng không nên điên đảo. Do điên đảo nên tất cả chúng sinh luân chuyển sinh tử. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Lục sư ! Như Lai Thế Tôn đoạn tuyệt vĩnh viễn sắc phược (sự trói buộc của sắc)... cho đến thức phược. Vậy nên gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Lại nữa, sắc thì tức là nhân duyên mà nếu là nhân duyên thì gọi là vô ngã. Vô ngã thì gọi là khổ, không. Thân của Như Lai chẳng phải là nhân duyên mà chẳng phải nhân duyên nên gọi là có ngã. Nếu có ngã thì tức là Thường Lạc Tịnh !”. Bọn Lục sư lại nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Sắc cũng chẳng phải ngã... cho đến thức cũng chẳng phải ngã ! Ngã thì khắp tất cả mọi nơi giống như hư không !”. Ðức Phật nói rằng : “Nếu khắp nơi có Ngã thì chẳng nên nói rằng, Ngã ban đầu chẳng thấy. Nếu ban đầu chẳng thấy thì biết là cái thấy đó vốn không mà nay có. Nếu vốn không mà nay có thì đó gọi là vô thường. Nếu vô thường thì làm sao nói rằng, có khắp. Nếu có khắp thì trong năm đường nên có đủ thân. Nếu có thân thì nên đều thọ báo. Nếu đều thọ báo thì vì sao mà nói chuyển thọ thân người trời. Ông nói khắp cùng là một hay là nhiều vậy ? Ngã nếu là một thì không cha, con, kẻ oán, người thân, người không oán không thân.... Ngã nếu là nhiều thì năm căn sở hữu của tất cả chúng sinh đều nên bình đẳng và nghiệp tuệ sở hữu của họ cũng nên như vậy. Nếu như vậy thì làm sao nói rằng, căn có người đầy đủ, có người không đầy đủ ? và nghiệp thiện, nghiệp ác, người ngu, kẻ trí sai biệt ?”. “Thưa ông Cù Ðàm ! Ngã của chúng sinh thì không có bờ cõi. Pháp cùng phi pháp thì có phân ra nhiều thứ. Chúng sinh tu pháp thì được thân đẹp, nếu làm phi pháp thì được thân xấu. Do nghĩa này nên nghiệp quả của chúng sinh chẳng được không sai khác”. Ðức Phật nói rằng : “Này Lục sư ! Pháp cùng phi pháp nếu như vậy thì ngã chẳng cùng khắp. Nếu ngã cùng khắp thì nên đều đến nơi. Như ngã ấy đều đến nơi thì người tu thiện cũng nên có ác, người làm ác cũng nên có thiện. Nếu chẳng vậy thì làm sao nói rằng cùng khắp ?”. “Thưa ông Cù Ðàm ! Ví như ngôi nhà thắp trăm ngàn ngọn đèn, mỗi mỗi đều tự sáng, chẳng tổn ngại lẫn nhau. Ngã của chúng sinh thì cũng lại như vậy. Việc tu thiện, làm ác của họ chẳng hòa hợp xen lẫn vào nhau !”. “Các ông nếu nói Ngã như ngọn đèn thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy? Vì ánh sáng của đèn kia từ nhân duyên mà có. Ðèn tăng trưởng nên ánh sáng cũng tăng trưởng, còn Ngã của chúng sinh thì chẳng như vậy. Ánh sáng từ đèn phát ra trụ tại chỗ khác còn ngã của chúng sinh thì chẳng được như vậy, từ thân mà ra chẳng trụ tại chỗ khác. Ánh sáng của đèn kia ở chung cùng với bóng tối. Vì sao vậy ? Vì như trong nhà tối thắp một ngọn đèn thì soi chẳng tỏ, thắp lên nhiều ngọn đèn mới được sáng tỏ. Nếu ngọn đèn đầu tiên phá được bóng tối thì chẳng cần những ngọn đèn sau. Nếu cần những ngọn đèn sau thì phải biết ánh sáng ban đầu ở chung cùng bóng tối”. “Thưa ông Cù Ðàm ! Nếu không Ngã thì ai tạo tác thiện ác ?”. Ðức Phật nói rằng : “Nếu Ngã tạo tác thì sao gọi là Thường. Như Ngã ấy thường thì làm sao mà được có thời gian làm thiện, có thời gian làm ác ?. Nếu nói có thời gian làm thiện, có thời gian làm ác thì làm sao lại được nói rằng, Ngã là vô biên ?. Nếu Ngã tạo tác thì vì sao mà lại tập làm pháp ác ?. Như ngã ấy chính là người làm, người biết thì vì sao sinh ra nghi ngờ chúng sinh vô ngã ?. Do nghĩa này nên trong pháp của ngoại đạo nhất định không có Ngã. Nếu nói Ngã thì tức là Như Lai. Vì sao vậy ? Vì thân Như Lai vô biên không có lưới nghi hoặc. Chẳng tác, chẳng thọ nên gọi là Thường. Chẳng sinh, chẳng diệt nên gọi là Lạc. Không cấu bẩn phiền não nên gọi là Tịnh. Không có mười tướng nên gọi là Không. Vậy nên Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh, rỗng không, không các tướng !”. Các ngoại đạo nói rằng : “Nếu nói rằng, Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh, vô tướng nên rỗng không thì phải biết pháp của ông Cù Ðàm nói là chẳng phải rỗng không vậy ! Vậy nên chúng ta hôm nay phải cung kính nhận lấy mà hộ trì !”. Lúc bấy giờ, ngoại đạo, số ấy nhiều không lường, đều ở trong Phật pháp khởi lòng tinxuất gia.

Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên ta ở vùng Ta La song thọ này mà Ðại Sư Tử Hống. Sư Tử Hống là gọi Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Song thọ của đông pương là phá hoại vô thường, thu hoạch được Thường.... cho đến song thọ của bắc phương là phá hoại được bất tịnh mà được tịnh. Này thiện nam tử ! Chúng sinh trong này vì song thọ nên hộ trì rừng Ta La, chẳng khiến cho người ngoài lấy cành lá của cây ấy, chặt cắt phá hoại. Ta cũng như vậy, vì bốn pháp nên khiến cho các đệ tử hộ trì Phật pháp. Những gì là bốn ? - Là Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðây là bốn song thọ, bốn vương điển chưởng. Ta vì bốn vua hộ trì pháp của ta nên ta ở trong đó mà Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ta La song thọ hoa trái luôn sum suê, luôn có thể lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Ta cũng như vậy, luôn có thể lợi ích cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Hoa là dụ cho Ngã, quả là dụ cho Lạc. Do nghĩa này nên ta ở vùng Ta La song thọ này mà vào Ðại Tịch Ðịnh. Ðại Tịch Ðịnh là gọi Ðại Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai vì sao Niết Bàn vào tháng hai?

- Này thiện nam tử ! Tháng hai gọi là mùa xuân, tháng của xuân dương, muôn vật sinh trưởng, gieo trồng cây cối hoa trái phát triển tươi tốt, sông nước tràn đầy, trăm loài thú sinh sôi. Lúc đó chúng sinh sinh ra nhiều thường tưởng. Vì muốn phá tâm thường tưởng như vậy của chúng sinh nên ta nói tất cả pháp đều là vô thường mà chỉ nói Như Lai thường trụ bất biến. Này thiện nam tử ! Ở trong sáu thời : Tiết mạnh đông khô khan tiều tụy mọi người chẳng yêu thích, tiết xuân dương dịch sống ôn hòa mọi người tham ái. Vì phá niềm vui thế gian của chúng sinh nên ta diễn nói Thường Lạc. Ngã Tịnh cũng vậy, Như Lai vì phá Ngã của thế gian, Tịnh của thế gian nên nói lên Ngã Tịnh chân thật của Như Lai. Nói tháng hai là dụ cho hai thứ pháp thân của Như Lai. Kẻ mùa đông chẳng ưa là người trí chẳng ưa Như Lai vô thường vào với Niết Bàn. Kẻ ưa thích tháng hai là dụ cho người trí ưa thích Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh. Người gieo trồng là dụ cho các chúng sinh nghe pháp vui mừng, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà gieo trồng các căn lành ! Sông là dụ cho những Ðại Bồ tátmười phương đến chỗ của ta hỏi han thính thọ kinh điển Ðại Niết Bàn này. Trăm loài thú sinh sôi là dụ cho đệ tử của ta sinh ra các thiện căn. Hoa dụ cho bảy giác chi. Quả dụ cho bốn thứ quả. Do nghĩa này nên ta ở trong tháy hai vào Ðại Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Ðức Như Lai từ sơ sinh, xuất gia, thành đạo, chuyển diệu pháp luân đều lấy ngày mùng tám mà vì sao riêng lấy ngày mười lăm để Niết Bàn ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Như ngày mười lăm, vầng trăng không khuyết, tròn đầy. Các đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, vào Ðại Niết Bàn không có khuyết, tròn đầy. Do nghĩa này nên ở trong ngày mười lăm vào Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Như ngày mười lăm, khi vầng trăng tròn đầy thì có mười một việc. Những gì là mười một ? Một là có thể phá bóng tối. Hai là khiến cho chúng sinh thấy đạo hay chẳng phải đạo. Ba là khiến cho chúng sinh thấy đạo tà hay chính. Bốn là trừ uất kết nung nấu được niềm vui thanh lương. Năm là có thể phá hoại lòng cống cao. Sáu là dứt tất cả tư tưởng đạo tặc. Bảy là trừ lòng sợ thú dữ của chúng sinh. Tám là có thể làm nở hoa Ưu Bát La. Chín là khép lại hoa sen. Mười là lòng người ra đi lên đường. Mười một là khiến cho các chúng sinh ưa thích thọ năm dục thu hoạch nhiều khoái lạc. Này thiện nam tử ! Vầng trăng tròn đầy Như Lai cũng lại như vậy : Một là phá hoại bóng tối lớn vô minh. Hai là diễn nói về chánh đạo, tà đạo. Ba là mở bày đường tà hiểm sinh tử, đường bằng phẳng Niết Bàn. Bốn là khiến cho con người xa lìa lửa nóng tham dục, sân nhuế, ngu si. Năm là phá hoại ánh sáng của ngoại đạo. Sáu là phá hoại giặc ác phiền não kết. Bảy là trừ diệt lòng sợ năm cái. Tám là mở mang lòng gieo trồng căn lành của chúng sinh. Chín là che phủ lòng năm dục của chúng sinh. Mười là phát khởi hạnh tiến tu hướng đến Ðại Niết Bàn của chúng sinh. Mười một là khiến cho chúng sinh ưa tu giải thoát. Do ý nghĩa này nên ta ở trong ngày mười lăm vào Ðại Niết Bànchân thật ta chẳng vào Niết Bàn. Người ác ngu si trong đệ tử của ta thì nhất định cho là Như Lai vào với Niết Bàn. Ví như người mẹ có nhiều những đứa con. Người mẹ ấy bỏ đi đến đất nước khác, trong khoảng thời gian chưa trở lại, các con đều nói rằng, mẹ ta đã chết. Nhưng mà người mẹ này thật chẳng chết vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Những Tỳkheo nào có thể trang nghiêm vùng Ta La Song Thọ này ?

- Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo thọ trì, đọc tụng mười hai bộ Kinh đúng với câu văn Kinh ấy, thông đạt nghĩa lý sâu xa, vì người giải nói mà lời đầu, lời giữa, lời cuối đều tốt. Rồi vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sinh mà diễn nói Phạm hạnh. Những Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Như con lý giải được ý nghĩa lời đức Phật nói thì Tỳkheo A Nan tức là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì Tỳkheo A Nan thọ trì đọc tụng mười hai bộ Kinh, vì người khác khai thị, diễn nói chính ngữ, chính nghĩa giống như rót nước đựng vào đồ đựng khác. Tỳkheo A Nan cũng lại như vậy, từ điều nghe được nơi đức Phật, ông nói truyền lại đúng như đã nghe.

- Này thiện nam tử ! Nếu có vị Tỳkheo được tịnh thiên nhãn nhiều thấu sở hữu của mười phương ba ngàn đại thiên thế giới như xem quả Am ma lặc trong bàn tay thì Tỳkheo như vậy cũng có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo A Ni Lâu Ðà là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì mắt của ngài A Ni Lâu Ðà thấy đến sở hữu của mười phương ba ngàn đại thiên thế giới cho đến trung ấm đều rõ ràng không chướng ngại vậy.

- Này thiện nam tử ! Nếu có vị Tỳkheo thiểu dục tri túc, lòng ưa tịch tịnh, siêng hành tinh tấn, niệm định tuệ giải thì Tỳkheo như vậy có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo Ca Diếp tức là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì Tỳkheo Ca Diếp giỏi tu pháp thiểu dục, tri túc.v.v...

- Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo vì lợi ích cho chúng sinh chẳng vì lợi dưỡngtu tập thông đạt Vô Tránh tam muội, Thánh hạnh, Không hạnh thì Tỳkheo như vậy có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

- Nếu như vậy thì Tỳkheo Tu Bồ Ðề tức là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì ngài Tu Bồ Ðề giỏi tu Vô Tránh tam muội, Thánh hạnh, Không hạnh.

- Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo giỏi tu thần thông. Trong một niệm có thể tạo tác đủ thứ thần thông biến hóa. Một tâm một định mà có thể tạo tác hai kết quả như là nước và lửa. Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo Mục Liên tức là người ấy. Vì sao vậy ? Vì ngài Mục Kiền Liên giỏi tu thần thông, biến hóa không lường.

- Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo giỏi tu đại trí, lợi trí, trang nghiêm trí, giải thoát trí, thậm thâm trí, quảng trí, vô biên trí, vô thắng trí, thật trí... Thành tựu đầy đủ tuệ căn như vậy, ở trong oán thân lòng không sai khác, nếu nghe Như Lai Niết Bàn vô thường thì lòng không lo buồn, nếu nghe Như Lai thường trụ chẳng vào Niết Bàn thì chẳng sinh ra vui mừng. Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo Xá Lợi Phất tức là người ấy. Vì sao vậy ? Vì ngài Xá Lợi Phất giỏi có thể thành tựu đầy đủ đại trí tuệ như vậy.

- Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo có thể nói chúng sinh đều có Phật tính, được thân Kim Cương, không có bờ cõi, Thường Lạc Ngã Tịnh, thân tâm vô ngại, được tám tự tại. Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì chỉ có đức Như Lai chính là người ấy. Vì sao vậy ? Vì thân của đức Như Lai là thân Kim Cương, vô biên, Thường Lạc Ngã Tịnh, thân tâm vô ngại, đủ tám tự tại. Thưa đức Thế Tôn ! Chỉ có đức Như Lai mới có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ. Như không có ngài thì chẳng đoan nghiêm. Nguyện xin đấng Ðại Từ vì trang nghiêm nên thường trụ ở rừng cây Ta La này !

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Tính của tất cả các pháp trụở Vô trụ mà sao ông nói rằng, nguyện xin Như Lai trụ?. Này thiện nam tử ! Phàm nói trụ tức là gọi sắc pháp. Các từ nhân duyên sinh ra nên gọi là trụ. Nhân duyên không chỗ nên gọi là vô trụ. Như Lai đã đoạn tất cả sắc phược (sự ràng buộc của sắc) thì sao phải nói là Như Lai trụ vậy ? Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Trụ gọi là kiêu mạn, do kiêu mạn nên chẳng được giải thoát, chẳng được giải thoát nên gọi là trụ. Ai có kiêu mạn? Từ đâu đến ? Vậy nên được gọi là trụ ở Vô trụ. Như Lai đoạn trừ vĩnh viễn tất cả kiêu mạn thì sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ? Trụ là gọi pháp hữu vi. Như Lai đã đoạn pháp hữu vi, vậy nên chẳng trụ. Trụ là gọi Không pháp. Như Lai đã đoạn pháp không như vậy. Vậy nên Như Lai thu hoạch được Thường Lạc Ngã Tịnh thì làm sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ ? Trụ là gọi hai mươi lăm cõi hữu. Như Lai đã đoạn hai mươi lăm cõi hữu thì làm sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ ? Trụ thì tức là tất cả phàm phu. Các bậc thánh thì vô khứ, vô lai, vô trụ. Như Lai đã đoạn tướng khứ, tướng lai, tướng trụ thì làm sao nói rằng trụ. Luận về vô trụ là gọi thân vô biên mà thân vô biên thì làm sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ ở rừng Ta La ? Nếu trụ ở rừng này thì tức là thân có biên. Nếu có biên thì đó là vô thườngNhư Lai là thường thì sao nói rằng trụ? Phàm vô trụ là gọi hư không. Tính của Như Lai đồng với hư không thì sao nói rằng trụ ? Lại vô trụ là gọi Kim Cương tam muội hoại tất cả trụ. Kim Cương tam muội tức là Như Lai thì sao nói rằng trụ? Lại, vô trụ tức là gọi huyễn. Như Lai đồng với huyễn thì sao nói rằng trụ? Lại, vô trụ là gọi không thỉ chung. Tính của Như Lai không có thỉ chung thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi pháp giới vô biênpháp giới vô biên tức là Như Lai thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Thủ Lăng Nghiêm tam muội biết tất cả pháp mà không sở trước. Do không chấp trước nên gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Như Lai đầy đủ Thủ Lăng Nghiêm định thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi xứ phi xứ lựcNhư Lai thành tựu xứ phi xứ lực thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi Ðàn Ba la mật mà Ðàn Ba la mật nếu có trụ thì chẳng được đến Thi Ba la mật... cho đến Bát nhã Ba la mật. Do nghĩa này nên Ðàn Ba la mật gọi là vô trụ. Như Lai... cho đến chẳng trụ Bát nhã Ba la mật thì sao nguyện rằng, Như Lai thường trụ ở rừng cây Ta La. Lại, vô trụ là gọi tu bốn Niệm xứ. Như Lai nếu trụ ở bốn Niệm xứ thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, gọi là trụ ở chẳng trụ. Lại, vô trụ là gọi vô biên chúng sinh giới. Như Lai đều đến giới phận vô biên của tất cả chúng sinh mà không chỗ trụ. Lại, vô trụ là gọi không nhà cửa (ốc trạch). Không nhà cửa là gọi sự không có. Không có thì gọi là vô sinh. Vô sinh thì gọi là vô tử. Vô tử thì gọi là vô tướng. Vô tướng thì gọi là không ràng buộc. Không ràng buộc thì gọi là vô trước. Vô trước thì gọi là vô lậu. Vô lậu tức là thiện. Thiện tức là vô vi. Vô vi thì tức là Ðại Niết Bàn thường. Ðại Niết Bàn thường tức là ngã. Ngã tức là Tịnh. Tịnh tức là Lạc. Thường Lạc Ngã Tịnh tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Ví như hư không chẳng trụ ở phương Ðông, ở phương Nam, ở phương Tây, ở phương Bắc, ở bốn phương bàng, ở phương trên, phương dưới. Như Lai cũng vậy, chẳng trụ ở phương Ðông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng và phương trên, phương dưới. Này thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, thân miệng ý ác được quả thiện thì không có chỗ này ! Thân miệng ý thiện được quả ác thì cũng không có chỗ này ! Nếu nói rằng, phàm phu thấy được Phật tính còn Bồ tát Thập Trụ chẳng được thấy thì cũng không có chỗ này ! Bọn nhất xiển đề, phạm tội ngũ nghịch, bài bàng kinh Phương Ðẳng, hủy phạm bốn trọng cấm được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì cũng không có chỗ này ! Bồ tát Lục trụ nhân duyên phiền não rơi vào ba đường ác thì cũng không có chỗ này ! Ðại Bồ tát dùng thân nữ chân thật để được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì cũng không có chỗ này ! Nhất xiển đề thường trụ còn Tam Bảo vô thường thì cũng không có chỗ này ! Như Lai trụ ở thành Câu Thi Na thì cũng không có chỗ này ! Này thiện nam tử ! Như Lai hôm nay, ở thành Câu Thi Na, vào Ðại tam muội, hang thiền định sâu mà chúng chẳng thấy nên gọi là Ðại Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Ðức Như Lai vì sao mà vào hang thiền định?

- Này thiện nam tử ! Vì muốn độ thoát các chúng sinh nên đối với người chưa gieo trồng thiện căn thì khiến cho họ gieo trồng. Kẻ đã gieo trồng thiện căn thì được tăng trưởng. Kẻ mà quả thiện chưa thành thục thì khiến cho được thành thục. Người đã thành thục thì nói về thú hướng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Kẻ khinh chê thiện pháp thì khiến cho họ sinh lòng tôn quí. Những kẻ có phóng dật thì khiến cho họ lìa khỏi phóng dật. Ta vì muốn cùng với Văn Thù Sư Lợi.v.v... các Ðại Hương Tượng (Ðại Bồ tát) chung luận nghị, vì muốn giáo hóa người ưa đọc tụng thâm ái thiền định, vì muốn dùng Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh để giáo hóa chúng sinh, vì quan sát pháp tạng thậm thâm bất cộng, vì muốn quở trách đệ tử phóng dật... Như Lai thường tịch tịnh mà còn ưa thiền định huống là bọn các ông phiền não chưa hết mà sinh ra phóng dật ! Ta vì muốn quở trách các Tỳkheo ác nhận chứa tám thứ vật bất tịnh và chẳng thiểu dục, chẳng tri túc, vì khiến cho chúng sinh tôn trọng pháp thiền định đã nghe... Do vì những nhân duyên này nên ta vào hang thiền định.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Vô tướng định này là gọi Ðại Niết Bàn ! Vậy nên Niết Bàn gọi là vô tướng. Do nhân duyên gì gọi là vô tướng ?

- Này thiện nam tử ! Vì không có mười tướng ! Những gì là mười? - Ðó là sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sinh tướng, trụ tướng, hoại tướng, nam tướng, nữ tướng. Ðó là mười tướng. Không có những tướng như vậy nên gọi là vô tướng. Này thiện nam tử ! Phàm chấp trước tướng thì có thể sinh ra si. Si nên sinh ra ái mà ái nên bị trói buộc. Ðã trói buộc nên thọ sinh mà đã sinh nên có chết. Có chết nên vô thường. Nếu chẳng chấp trước tướng thì chẳng sinh ra si. Chẳng sinh si thì không có ái, không có ái thì không trói buộc. Không trói buộc thì chẳng thọ sinh. Chẳng thọ sinh thì không có chết. Không có chết thì gọi là Thường. Do nghĩa này nên Niết Bàn gọi là Thường !

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Những Tỳkheo nào có thể đoạn được mười tướng ?

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo lúc nào cũng tu tập ba thứ tướng thì đoạn được mười tướng ! Lúc nào cũng tu tập tướng tam muội định. Lúc nào cũng tu tập tướng trí tuệ. Lúc nào cũng tu tập tướng xả. Ðó gọi là ba tướng.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

- Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là định tướng định, tướng tuệ, tướng xả? Tam muội này là tất cả chúng sinh đều có tam muội thì sao nói rằng, tu tập tam muội ? Nếu tại một cảnh thì gọi là tam muội, nếu thay đổi theo duyên khác thì chẳng gọi là tam muội. Như bất định kia chẳng phải nhất thiết trí mà chẳng phải nhất thiêt trí thì sao gọi là định ? Nếu do một hạnh được tam muội thì các hạnh còn lại ấy cũng chẳng phải là tam muội. Nếu chẳng phải tam muội thì chẳng phải nhất thiết trí. Nếu chẳng phải nhất thiết trí thì sao gọi là tam muội ? Hai tướng tuệ và xả cũng lại như vậy.

Ðức Phật dạy rằng :

- Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, duyên với một cảnh được gọi là tam muội, các duyên còn lại kia chẳng gọi là tam muội thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì các duyên còn lại như vậy cũng một cảnh. Hạnh cũng như vậy. Ông lại nói, chúng sinhtam muội trước, chẳng cần tu hành thì điều này cũng chẳng đúng ! Sở dĩ vì sao ? Vì khi nói tam muội là gọi thiện tam muội mà tất cả chúng sinh chân thật chưa có thì làm sao mà nói rằng, chẳng cần tu tập ? Do trụ ở trong thiện tam muội như vậy mà quan sát tất cả pháp nên gọi là tướng thiện tuệ. Chẳng thấy tướng khác của tam muộitrí tuệ thì đó gọi là tướng xả. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu chọn lấy sắc tướng thì chẳng quan sát tướng sắc thường hay vô thường. Ðó gọi là tam muội. Nếu có thể quan sát tướng sắc thường hay vô thường thì đó gọi là tướng tuệ. Tam muội và Tuệ bình đẳng quan sát tất cả pháp thì đó gọi là tướng Xả. Này thiện nam tử ! Như người giỏi điều khiển chiếc xe bốn ngựa làm chủ được sự chậm nhanh. Sở đắc sự nhanh chậm nên gọi là tướng xả. Bồ tát cũng vậy, người nhiều tam muội thì tu tập tuệ. Nếu người nhiều tuệ thì tu tập tam muội. Tam muội và tuệ bình đẳng thì gọi là Xả. Này thiện nam tử ! Bồ tát Thập Trụ lực trí tuệ nhiều, lực tam muội ít, vậy nên chẳng được thấy Phật tính rõ ràng. Thanh Văn, Duyên Giác lực tam muội nhiều, lực trí tuệ ít. Do nhân duyên này nên chẳng thấy Phật tính. Các đức Phật Thế Tôn thì Ðịnh và Tuệ bình đẳng nên sáng thấy Phật tính rõ ràng, không ngăn ngại như xem quả Am ma lặc trong bàn tay. Thấy Phật tính gọi là tướng Xả.

Xa ma tha thì gọi là năng diệt, hay diệt trừ tất cả phiền não kết. Lại, Xa ma tha thì gọi là năng điều, hay điều phục việc ác,bất thiện của các căn. Lại, Xa ma tha thì gọi rằng Tịch Tịnh, có thể khiến cho ba nghiệp trở nên tịch tịnh. Lại, Xa ma tha là gọi rằng Viễn Ly, có thể khiến cho chúng sinh lìa khỏi năm dục. Lại, Xa ma tha là gọi rằng năng thanh, có thể làm trong sạch ba trược (vẩn đục) pháp là tham dục, sân nhuếngu si. Do nghĩa này nên gọi là Ðịnh tướng. Tỳ Bà Xá Na gọi là chánh kiến, cũng gọi là liễu kiến, gọi là năng kiến, gọi là biến (khắp) kiến, gọi là thứ đệ kiến, gọi là biệt tướng kiến... Ðó gọi là Tuệ. Ưu Tất Xoa thì gọi là bình đẳng, cũng gọi là bất tranh (cãi), lại gọi là bất quán, cũng gọi là bất hạnh (hành động)... Ðó gọi là Xả. Này thiện nam tử ! Xa ma tha có hai thứ, một là thế gian, hai là xuất thế gian. Lại có hai thứ, một là thành tựu, hai là chẳng thành tựu. Thành tựu thì để gọi chư Phật, Bồ tát, chẳng thành tựu thì để gọi Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v... Lại có ba thứ là hạ, trung, thượng. Hạ là gọi các phàm phu, trung là Thanh Văn, Duyên Giác, thượng là chư Phật Bồ tát. Lại có bốn thứ, một là thoái, hai là trụ, ba là tiến, bốn là có thể đại lợi ích. Lại có năm thứ, đó là gọi năm trí tam muội. Những gì là năm ? Một là vô thực (ăn) tam muội, hai là vô quá (lỗi) tam muội, ba là thân ý thanh tịnh nhất tâm tam muội, bốn là nhân quả câu lạc tam muội, năm là Thường niệm tam muội. Lại có sáu thứ, một là quán cốt tam muội, hai là từ tam muội, ba là quán thập nhị nhân duyên tam muội, bốn là A na bà na tam muội, năm là niệm giác quán tam muội, sáu là quán sinh diệt tam muội. Lại có bảy thứ, đó là bảy giác phận, một là niệm giác phận, hai là trạch pháp giác phận, ba là tinh tấn giác phận, bốn là hỷ giác phận, năm là trừ giác phận, sáu là định giác phận, bảy là xả giác phận. Lại có bảy thứ, một là Tu đà hoàn tam muội, hai là Tư đà hàm tam muội, ba là A na hàm tam muội, bốn là A la hán tam muội, năm là Bích Chi Phật tam muội, sáu là Bồ tát tam muội, bảy là Như Lai giác tri tam muội. Lại có tám thứ là tám giải thoát tam muội. Một là Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát tam muội. Hai là Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát tam muội. Ba là Tịnh giải thoát thân chứng tam muội. Bốn là Không xứ giải thoát tam muội. Năm là Thức xứ giải thoát tam muội. Sáu là Vô sở hữu xứ giải thoát tam muội. Bảy là phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ giải thoát tam muội. Tám là Diệt tận định giải thoát tam muội. Lại có chín thứ là chín thứ lớp định : Bốn thiền, bốn Không và Diệt tận định tam muội. Lại có mười thứ là mười Nhất thiết xứ tam muội. Những gì là mười ? Một là Ðịa nhất thiết xứ tam muội. Hai là Thủy nhất thiết xứ tam muội. Ba là Phong nhất thiết xứ tam muội. Bốn là Thanh (xanh) nhất thiết xứ tam muội. Năm là Hoàng (vàng) nhất thiết xứ tam muội. Sáu là xích (đỏ) nhất thiết xứ tam muội. Bảy là Bạch nhất thiết xứ tam muội. Tám là Không nhất thiết xứ tam muội. Chín là Thức nhất thiết xứ tam muội. Mười là Vô sở hữu nhất thiết xứ tam muội. Lại có vô số thứ, là gọi các đức Phật, Bồ tát. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là tướng tam muội.

Này thiện nam tử ! Tuệ có hai thứ, một là thế gian, hai là xuất thế gian. Lại có ba thứ, một là Bát nhã, hai là Tỳ bà xá na, ba là Xà na. Bát nhã là gọi tất cả chúng sinh. Tỳ bà xá na là gọi tất cả Thánh nhân. Xà na là chư Phật Bồ tát. Lại, Bát nhã thì gọi là Biệt tướng. Tỳ bà xá na thì gọi là Tổng tướng. Xà na thì gọi là Phá tướng. Lại có bốn thứ là quan sát bốn chân đế. Này thiện nam tử ! Vì ba việc nên tu Xa ma tha. Những gì là ba ? Một là chẳng phóng dật, hai là trang nghiêm đại trí, ba là được tự tại. Lại nữa, vì ba việc nên tu Tỳ bà xá na. Những gì là ba ? Một là vì quan sát quả báo của sinh tử ác. Hai là vì muốn tăng trưởng các căn lành. Ba là vì phá tất cả các phiền não.

 

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

- Quyển thứ hai mươi tám hết -

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17966)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12342)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15327)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14318)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12087)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15334)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11988)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11153)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10597)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14790)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12659)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16536)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19630)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13099)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12245)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13485)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11936)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11834)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12753)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13602)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12883)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9854)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18002)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11149)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9062)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12161)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13032)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12198)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14258)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19678)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24580)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant