Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Veranjaka-Sutta (và Kinh Nakulapita-Sutta)

13 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 28652)
Kinh Veranjaka-Sutta (và Kinh Nakulapita-Sutta)

KINH VERANJAKA - SUTTA
(và KINH NAKULAPITA – SUTTA)

Hoang Phong

 Veranja là một địa danh, vào thời kỳ của Đức Phật thì có thể đấy là tên của một thôn ấp hay một ngôi làng thế nhưng ngày nay thì địa danh này không còn nữa. Nhà sư Tích Lan Môhan Wijayaratna gọi kinh Veranjaka-Sutta"Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân". Kinh này được ghi chép trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya, quyển III, 57-59, ấn bản PTS, 1885-1910). Sở dĩ phải trình bày dài dòng như trên đây là vì có một bản kinh khác cũng mang tên là kinh Veranjaka-Sutta, thế nhưng dài hơn và được xếp vào Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya, tập I, kinh số 42), và đã được Hòa Thượng Thích Minh Châu Việt dịch trong Đại Tạng Kinh Việt Nam (Kinh Trung Bộ, người đọc có thể xem kinh này trên các trang web thuvienhoasen, quangduc...). Rất có thể là cả hai bản kinh trên đây đã được Đức Phật thuyết giảng chung trong dịp Ngài tiếp xúc với các vị "chủ gia đình" lưu ngụ tại Veranja, thế nhưng lại cũng có thể là vì hai bản kinh dài ngắn khác nhau nên đã được xếp vào hai Bộ kinh khác nhau chăng?

 Dưới đây là phần chuyển ngữ bản kinh Veranjika Sutta ngắn tức là "Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân". Phần chuyển ngữ chủ yếu được dựa vào hai bản dịch: một từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna, (Sermons du Bouddha, nxb Cerf, 1988, tr. 67-69), và một từ bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của hai nhà sư Tích Lan là Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi thực hiện (Samyutta Nikaya, Part III, Chap. I, Div. I, selected and translated from the Pali by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi).

Veranjaka Sutta

Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân
(Anguttara Nikaya, III, 57-59, PTS, 1885-1910)

Tiết 6-1

 "Có một lần Đấng Thế Tôn đang du hành trên con đường cái nối liền giữa Mandura và Veranja, thì vào lúc ấy có một đám đông các vị chủ gia đình cùng với các bà vợ của họ cũng cùng đi trên trục lộ quan trọng này.

 "Đấng Thế Tôn rời khỏi đường cái và ngồi xuống một chiếc ghế được đặt dưới một gốc cây cạnh bên vệ đường. Trông thấy Đấng Thế Tôn ngồi [nghỉ chân], đám người chủ gia đình cùng với các bà vợ bèn tiến đến gần, họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi lại và ngồi sang một bên. Khi họ đã an tọa thì Đấng Thế Tôn cất lời với họ như sau:

Tiết 6-2

 "Này các người chủ gia đình, có bốn cách sống chung (trong cuộc sống lứa đôi). Vậy bốn cách sống ấy là gì? [Đấy là] một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết; một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân; một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết; một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

Tiết 6-3

 "Này các người chủ gia đình, [vậy] một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong trường hợp ấy, này các người chủ gia đình, người chồng là một kẻ sát sinh, hắn phạm vào tội ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-4

 "Vợ hắn cũng là một kẻ sát sinh, ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, đấy chính là một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết.

Tiết 6-5

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào? Trong trường hợp ấy người chồng là một kẻ sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, vướng vào những hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ

Tiết 6-6

 "Trong khi đó thì vợ hắn là người không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

Tiết 6-7

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ

Tiết 6-8

 "Trong khi đó thì vợ hắn sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, phạm vào những hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng nhưng thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa ô uế, gây ra khổ đau cho người khác, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết.

Tiết 6-9

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào? Trong trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-10

 "Vợ hắn cũng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được nhưng hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

 "Này các người chủ gia đình, đấy là bốn cách sống chung (trong đời sống lứa đôi)".

 

Vài lời ghi chú

 Trên bình diện tổng quát thì các bài thuyết giảng của Đức Phật hầu hết đều nhằm vào các chủ đề thật khúc chiết và những khái niệm thật căn bản trong giáo lý, chủ yếu là nhắm vào những người xuất gia, tức là những môn đệ của Ngài. Tuy nhiên người ta cũng tìm thấy một số bài giảng dành cho người thế tục, nhằm mục đích giúp họ mang lại hạnh phúc và sự hài hòa trong gia đình, thực thi một cuộc cuộc sống đạo đức, ý thức được bổn phận của họ trong cộng đồng xã hội.

 Theo dòng tiến hóa của xã hội hơn hai ngàn năm trăm năm, tất nhiên các quan niệm về gia đình, đạo đức, phong tục cũng đã biến đổi không ngừng để thích nghi với các nền văn hóa khác nhau và các chủng tộc khác nhau. Thế nhưng trên căn bản thì các quy luật đạo đức quy định cho nếp sống gia đình và cách xử thế giữa con người với nhauĐức Phật chủ trương vẫn còn giữ được giá trị đến ngày nay. Những gì mà Ngài thuyết giảng và chỉ dạy cho những con người thời bấy giờ đôi khi cũng khiến chúng ta phải bàng hoàng vì ngỡ rằng Ngài đang thuyết giảng cho chính chúng ta hôm nay.

 Trong số những bài thuyết giảng ở cấp bậc "thấp" tức mang tính cách đại chúng, dành cho người thế tục, Đức Phật đã nêu lên rất nhiều chủ đề khác nhau liên quan đến gia đình, xã hội, sự giao tiếp giữa con người với nhau. Đôi khi Ngài giảng rất chi tiết và đưa ra nhiều thí dụ rất cụ thể về các cách xử thế cần phải chọn. Trong quyển sách trên đây, Môhan Wijayaratna có trích dẫn một số kinh thuộc vào lãnh vực này, chẳng hạn như Đức Phật dạy một vị chủ nhân phải làm thế nào để tạo ra sự hợp tác tốt đẹp với người làm công (kinh Sigalovada-sutta, Digha Nikaya. III, 180), người chủ gia đình nên làm thế nào để mọi người chung quanh kính mến mình (kinh Vasala-sutta, Suttanipata, v. 116-142), làm thế nào để tránh khỏi cảnh sa sútnghèo đói (kinh Parabhava-sutta, Suttanipata, 91-115), phải dùng đồng tiền như thế nào (kinh Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya. IV, 281-282), v.v...

 Tóm lại Đức Phật không những chỉ thuyết giảng những gì thật cao siêu mà Ngài cũng đã mang lại những giải pháp cụ thể giúp người thế tục đạt những khát vọng đôi khi rất đơn sơchân thật của họ, chẳng hạn như trong câu chuyện khá cảm động sau đây ghi lại trong một bản kinh thật ngắn là Nakulapita-Sutta (Anguttara Nikaya. II, 61-62). Đấy là câu chuyện của một đôi vợ chồng đã lớn tuổi thế nhưng vẫn quấn quýt bên nhau, họ hỏi Đức Phật phải làm thế nào để họ còn tiếp tục tìm thấy nhau trong các kiếp sống tương lai. Vì bản kinh không quá dài do đó cũng xin chuyển ngữ toàn bộ như dưới đây để thay cho phần kết luận và cũng để bổ túc thêm cho bản kinh Veranjaka-Sutta đã trình bày trên đây. Phần chuyển ngữ được dựa vào bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi ("An anthology of Suttas from the Anguttara Nikāya", selected and translated from the Pāli by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi, Edited by Nyanaponika Thera):

 

Nakulapita-Sutta

Kinh "Làm thế nào để gặp lại nhau trong các kiếp sống tương lai"
(Anguttara Nikaya, II, 61-62, PTS, 1885-1910)

 "Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển, nơi hang Bhesakala. Một hôm, vào lúc tinh sương, Đấng Thế Tôn khoác thêm tấm y thượng (áo ấm) lên người, cầm bình bát và đi đến nhà một người chủ gia đình tên là Nakulapita. Khi đến nhà người này thì Đấng Thế Tôn ngồi vào chiếc ghế dành riêng cho Ngài.

 Người chủ gia đình Nakulapita và người nội trợ là Nakulamata (tức là vợ của Nakulapita), cả hai cùng tiến đến gần Đấng Thế Tôn vái chào Ngài rồi ngồi sang một bên. Sau khi an tọa Nakulapita cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

 "Bạch Thế Tôn, từ ngày con đem người nội trợ Nakulamata, lúc ấy còn trẻ dại, về sống nơi căn nhà này với con, con xin thú nhận rằng cho đến hôm nay con chưa bao giờ lừa dối vợ con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng hành động thì lại còn khó để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng mong ước lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Sau đó lại đến lượt người nội trợ Nakulamata cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

 "Bạch Thế Tôn, từ khi con còn con gái và được mang về căn nhà này để chung sống với người chồng trẻ tuổi của con là Nakulapita, con xin thú nhận rằng cho đến hôm nay con chưa bao giờ lừa dối chồng con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng hành động thì lại còn khó để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng mong ước lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Đấng Thế Tôn bèn cất lời với họ như sau:

 "Này cả hai gia chủ, nếu cả vợ lẫn chồng ước mong lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và còn muốn tiếp tục nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương, thì phải có cùng một niềm tin, một lòng rộng lượng như nhau, noi theo một nền đạo đức như nhau, thực hiện được một trí tuệ như nhau; [được như thế] thì cả hai sẽ nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Nếu Đức Phật đã từng chứng minh cho chúng ta thấy qua hệ thống giáo lý siêu việtvô cùng sâu sắc các quy luật toàn cầu chi phối sự vận hành của cả vũ trụ này, chẳng hạn quy luật tương liên, hiện tượng vô thườngbản chất trống không của vạn vật..., khiến cho các khoa học gia, triết giahọc giả Tây phương ngày nay phải kinh ngạcthán phục, thì trong kiếp nhân sinh của Ngài, Ngài cũng đã từng ngồi xuống để lắng nghe những con người thật bình dị, đơn sơ và chất phác thổ lộ những ước mơ thật tự nhiênchân thật của họ.

 Tuy những ước mơ ấy phản ảnh bản chất bám víutrói buộc đưa họ quay trở lại với thế giới ta-bà, thế nhưng Đức Phật không làm gì khác hơn được và đã chỉ cách cho họ để có thể tiếp tục nhìn thấy nhau, bằng cách hướng họ vào con đường của đạo hạnh, từ bitrí tuệ. Đấy là con đường giúp cho họ đến một ngày nào đó sẽ tìm thấy sự giải thoát tối hậu. Dù cho con đường ấy có thật dài đi nữa, thế nhưng đấy cũng là những gì có thể giúp họ mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự sống này, và nhất là sẽ giúp cho họ không nhìn thấy nhau "giống như hai xác chết" đang sống cạnh nhau trong kiếp nhân sinh này của họ.

Bures-Sur-Yvette, 11.11.11
Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12518)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10854)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11198)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12006)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13157)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13643)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33675)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11342)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13064)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11635)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17901)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11449)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11865)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11513)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18980)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12557)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11348)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13155)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15784)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11825)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11701)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12638)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13972)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13001)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12953)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13302)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12778)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12704)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11754)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11740)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12331)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19829)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11965)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11996)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12678)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15066)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16128)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12885)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11921)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13156)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16512)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11826)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11166)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11264)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10405)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10974)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10041)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant