Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Veranjaka-Sutta (và Kinh Nakulapita-Sutta)

13 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 28566)
Kinh Veranjaka-Sutta (và Kinh Nakulapita-Sutta)

KINH VERANJAKA - SUTTA
(và KINH NAKULAPITA – SUTTA)

Hoang Phong

 Veranja là một địa danh, vào thời kỳ của Đức Phật thì có thể đấy là tên của một thôn ấp hay một ngôi làng thế nhưng ngày nay thì địa danh này không còn nữa. Nhà sư Tích Lan Môhan Wijayaratna gọi kinh Veranjaka-Sutta"Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân". Kinh này được ghi chép trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya, quyển III, 57-59, ấn bản PTS, 1885-1910). Sở dĩ phải trình bày dài dòng như trên đây là vì có một bản kinh khác cũng mang tên là kinh Veranjaka-Sutta, thế nhưng dài hơn và được xếp vào Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya, tập I, kinh số 42), và đã được Hòa Thượng Thích Minh Châu Việt dịch trong Đại Tạng Kinh Việt Nam (Kinh Trung Bộ, người đọc có thể xem kinh này trên các trang web thuvienhoasen, quangduc...). Rất có thể là cả hai bản kinh trên đây đã được Đức Phật thuyết giảng chung trong dịp Ngài tiếp xúc với các vị "chủ gia đình" lưu ngụ tại Veranja, thế nhưng lại cũng có thể là vì hai bản kinh dài ngắn khác nhau nên đã được xếp vào hai Bộ kinh khác nhau chăng?

 Dưới đây là phần chuyển ngữ bản kinh Veranjika Sutta ngắn tức là "Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân". Phần chuyển ngữ chủ yếu được dựa vào hai bản dịch: một từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna, (Sermons du Bouddha, nxb Cerf, 1988, tr. 67-69), và một từ bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của hai nhà sư Tích Lan là Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi thực hiện (Samyutta Nikaya, Part III, Chap. I, Div. I, selected and translated from the Pali by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi).

Veranjaka Sutta

Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân
(Anguttara Nikaya, III, 57-59, PTS, 1885-1910)

Tiết 6-1

 "Có một lần Đấng Thế Tôn đang du hành trên con đường cái nối liền giữa Mandura và Veranja, thì vào lúc ấy có một đám đông các vị chủ gia đình cùng với các bà vợ của họ cũng cùng đi trên trục lộ quan trọng này.

 "Đấng Thế Tôn rời khỏi đường cái và ngồi xuống một chiếc ghế được đặt dưới một gốc cây cạnh bên vệ đường. Trông thấy Đấng Thế Tôn ngồi [nghỉ chân], đám người chủ gia đình cùng với các bà vợ bèn tiến đến gần, họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi lại và ngồi sang một bên. Khi họ đã an tọa thì Đấng Thế Tôn cất lời với họ như sau:

Tiết 6-2

 "Này các người chủ gia đình, có bốn cách sống chung (trong cuộc sống lứa đôi). Vậy bốn cách sống ấy là gì? [Đấy là] một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết; một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân; một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết; một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

Tiết 6-3

 "Này các người chủ gia đình, [vậy] một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong trường hợp ấy, này các người chủ gia đình, người chồng là một kẻ sát sinh, hắn phạm vào tội ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-4

 "Vợ hắn cũng là một kẻ sát sinh, ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, đấy chính là một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết.

Tiết 6-5

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào? Trong trường hợp ấy người chồng là một kẻ sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, vướng vào những hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ

Tiết 6-6

 "Trong khi đó thì vợ hắn là người không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

Tiết 6-7

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ

Tiết 6-8

 "Trong khi đó thì vợ hắn sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, phạm vào những hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng nhưng thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa ô uế, gây ra khổ đau cho người khác, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết.

Tiết 6-9

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào? Trong trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-10

 "Vợ hắn cũng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được nhưng hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

 "Này các người chủ gia đình, đấy là bốn cách sống chung (trong đời sống lứa đôi)".

 

Vài lời ghi chú

 Trên bình diện tổng quát thì các bài thuyết giảng của Đức Phật hầu hết đều nhằm vào các chủ đề thật khúc chiết và những khái niệm thật căn bản trong giáo lý, chủ yếu là nhắm vào những người xuất gia, tức là những môn đệ của Ngài. Tuy nhiên người ta cũng tìm thấy một số bài giảng dành cho người thế tục, nhằm mục đích giúp họ mang lại hạnh phúc và sự hài hòa trong gia đình, thực thi một cuộc cuộc sống đạo đức, ý thức được bổn phận của họ trong cộng đồng xã hội.

 Theo dòng tiến hóa của xã hội hơn hai ngàn năm trăm năm, tất nhiên các quan niệm về gia đình, đạo đức, phong tục cũng đã biến đổi không ngừng để thích nghi với các nền văn hóa khác nhau và các chủng tộc khác nhau. Thế nhưng trên căn bản thì các quy luật đạo đức quy định cho nếp sống gia đình và cách xử thế giữa con người với nhauĐức Phật chủ trương vẫn còn giữ được giá trị đến ngày nay. Những gì mà Ngài thuyết giảng và chỉ dạy cho những con người thời bấy giờ đôi khi cũng khiến chúng ta phải bàng hoàng vì ngỡ rằng Ngài đang thuyết giảng cho chính chúng ta hôm nay.

 Trong số những bài thuyết giảng ở cấp bậc "thấp" tức mang tính cách đại chúng, dành cho người thế tục, Đức Phật đã nêu lên rất nhiều chủ đề khác nhau liên quan đến gia đình, xã hội, sự giao tiếp giữa con người với nhau. Đôi khi Ngài giảng rất chi tiết và đưa ra nhiều thí dụ rất cụ thể về các cách xử thế cần phải chọn. Trong quyển sách trên đây, Môhan Wijayaratna có trích dẫn một số kinh thuộc vào lãnh vực này, chẳng hạn như Đức Phật dạy một vị chủ nhân phải làm thế nào để tạo ra sự hợp tác tốt đẹp với người làm công (kinh Sigalovada-sutta, Digha Nikaya. III, 180), người chủ gia đình nên làm thế nào để mọi người chung quanh kính mến mình (kinh Vasala-sutta, Suttanipata, v. 116-142), làm thế nào để tránh khỏi cảnh sa sútnghèo đói (kinh Parabhava-sutta, Suttanipata, 91-115), phải dùng đồng tiền như thế nào (kinh Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya. IV, 281-282), v.v...

 Tóm lại Đức Phật không những chỉ thuyết giảng những gì thật cao siêu mà Ngài cũng đã mang lại những giải pháp cụ thể giúp người thế tục đạt những khát vọng đôi khi rất đơn sơchân thật của họ, chẳng hạn như trong câu chuyện khá cảm động sau đây ghi lại trong một bản kinh thật ngắn là Nakulapita-Sutta (Anguttara Nikaya. II, 61-62). Đấy là câu chuyện của một đôi vợ chồng đã lớn tuổi thế nhưng vẫn quấn quýt bên nhau, họ hỏi Đức Phật phải làm thế nào để họ còn tiếp tục tìm thấy nhau trong các kiếp sống tương lai. Vì bản kinh không quá dài do đó cũng xin chuyển ngữ toàn bộ như dưới đây để thay cho phần kết luận và cũng để bổ túc thêm cho bản kinh Veranjaka-Sutta đã trình bày trên đây. Phần chuyển ngữ được dựa vào bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi ("An anthology of Suttas from the Anguttara Nikāya", selected and translated from the Pāli by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi, Edited by Nyanaponika Thera):

 

Nakulapita-Sutta

Kinh "Làm thế nào để gặp lại nhau trong các kiếp sống tương lai"
(Anguttara Nikaya, II, 61-62, PTS, 1885-1910)

 "Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển, nơi hang Bhesakala. Một hôm, vào lúc tinh sương, Đấng Thế Tôn khoác thêm tấm y thượng (áo ấm) lên người, cầm bình bát và đi đến nhà một người chủ gia đình tên là Nakulapita. Khi đến nhà người này thì Đấng Thế Tôn ngồi vào chiếc ghế dành riêng cho Ngài.

 Người chủ gia đình Nakulapita và người nội trợ là Nakulamata (tức là vợ của Nakulapita), cả hai cùng tiến đến gần Đấng Thế Tôn vái chào Ngài rồi ngồi sang một bên. Sau khi an tọa Nakulapita cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

 "Bạch Thế Tôn, từ ngày con đem người nội trợ Nakulamata, lúc ấy còn trẻ dại, về sống nơi căn nhà này với con, con xin thú nhận rằng cho đến hôm nay con chưa bao giờ lừa dối vợ con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng hành động thì lại còn khó để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng mong ước lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Sau đó lại đến lượt người nội trợ Nakulamata cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

 "Bạch Thế Tôn, từ khi con còn con gái và được mang về căn nhà này để chung sống với người chồng trẻ tuổi của con là Nakulapita, con xin thú nhận rằng cho đến hôm nay con chưa bao giờ lừa dối chồng con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng hành động thì lại còn khó để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng mong ước lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Đấng Thế Tôn bèn cất lời với họ như sau:

 "Này cả hai gia chủ, nếu cả vợ lẫn chồng ước mong lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và còn muốn tiếp tục nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương, thì phải có cùng một niềm tin, một lòng rộng lượng như nhau, noi theo một nền đạo đức như nhau, thực hiện được một trí tuệ như nhau; [được như thế] thì cả hai sẽ nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Nếu Đức Phật đã từng chứng minh cho chúng ta thấy qua hệ thống giáo lý siêu việtvô cùng sâu sắc các quy luật toàn cầu chi phối sự vận hành của cả vũ trụ này, chẳng hạn quy luật tương liên, hiện tượng vô thườngbản chất trống không của vạn vật..., khiến cho các khoa học gia, triết giahọc giả Tây phương ngày nay phải kinh ngạcthán phục, thì trong kiếp nhân sinh của Ngài, Ngài cũng đã từng ngồi xuống để lắng nghe những con người thật bình dị, đơn sơ và chất phác thổ lộ những ước mơ thật tự nhiênchân thật của họ.

 Tuy những ước mơ ấy phản ảnh bản chất bám víutrói buộc đưa họ quay trở lại với thế giới ta-bà, thế nhưng Đức Phật không làm gì khác hơn được và đã chỉ cách cho họ để có thể tiếp tục nhìn thấy nhau, bằng cách hướng họ vào con đường của đạo hạnh, từ bitrí tuệ. Đấy là con đường giúp cho họ đến một ngày nào đó sẽ tìm thấy sự giải thoát tối hậu. Dù cho con đường ấy có thật dài đi nữa, thế nhưng đấy cũng là những gì có thể giúp họ mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự sống này, và nhất là sẽ giúp cho họ không nhìn thấy nhau "giống như hai xác chết" đang sống cạnh nhau trong kiếp nhân sinh này của họ.

Bures-Sur-Yvette, 11.11.11
Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32605)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30230)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30312)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12157)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12585)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34454)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9722)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52115)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10626)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10593)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10343)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9518)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12526)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16117)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13734)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11957)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9121)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11188)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12513)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14861)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13031)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20541)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17465)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13856)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11907)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant