Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A Di Đà Kinh Hợp Giải

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 46656)
A Di Đà Kinh Hợp Giải


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

Phần Một 

Lời Trần Tình

 Trong các kinh điển Ðại Thừa được lưu truyền rộng rãi, xét về mức độ được giảng giải, trì tụng, có lẽ kinh Di Ðà chỉ kém Tâm Kinh Bát Nhã. Từ trước đến nay, trong các tùng lâm, kinh Di Ðà vẫn thường được tụng vào mỗi thời công phu tối và hầu như bất cứ vị Tăng Ni thuộc truyền thống Bắc Tông nào cũng đều thuộc lòng kinh Di Ðà. Bổn Sư của mạt nhân kể rằng: Trong thời gian làm điệu, ngoài bản Sa Di Tỳ Ni, Hòa Thượng viện chủ bắt các điệu phải học thuộc lòng Di Ðà đến nỗi có thể đọc từ chữ cuối ngược lên đầu kinh mà không vấp. Khi học chữ Hán, văn bản đầu tiên Hòa Thượng dùng để dạy các điệu cũng là kinh Di Ðà. Khi Hòa Thượng còn tại thế, dù tụng kinh gì đi nữa, mỗi ngày đại chúng trong chùa đều phải tụng Di Ðà ít nhất một lần

Tuy được lưu truyền, trì tụng rộng rãi trong khắp các tùng lâm, đối với Phật tử nói chung, kinh Di Ðà vẫn là một kinh bị hiểu lầm nhiều nhất. Trong một lần trò chuyện với một Phật tử tu tại gia lâu năm, cũng tu hạnh Tịnh Ðộ, mạt nhân đã sững sờ khi nghe vị ấy nói: “Cháu tụng kinh gì hằng ngày? Kinh Di Ðà hả? Mỗi ngày tôi tụng một quyển Pháp Hoa hay kinh Niết Bàn kia, chứ những kinh nhỏ, sơ cơ như kinh Di Ðà, kinh Ðịa Tạng chỉ khi nào đi đám ma tôi mới thèm tụng đến mà thôi!” Tưởng chỉ mình vị ấy nghĩ như thế, nào ngờ phần lớn những đạo hữu thường gặp hằng tuần tại ngôi chùa gần nhà cũng đều cho rằng kinh Di Ðà chỉ dành để đọc cho người chết nghe! Thật là đáng buồn, bản kinh quý báu, tâm huyết của đức Thích Tôn, diệu dược cho đời Mạt Pháp đã bị hiểu lầm, rẻ rúng đến thế ấy!

Sau này, khi đi nghe giảng, chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy không ít vị xuất gia cũng tỏ vẻ coi thường kinh Di Ðà. Theo họ, kinh Di Ðà chỉ dành cho hạng ông già, bà cả, ít chữ trì tụng. Ðối với những vị giảng sư thao thao thuyết giảng, tự hào làu thông kinh điển Tam Tạng ấy, kinh Di Ðà chỉ là một thứ ngụ ngôn, một thứ phương tiện quyền biến, hay nói khó nghe hơn là một thứ bánh vẽ để dẫn dụ những hạng sơ cơ nhập đạo. Thậm chí có vị còn chê kinh Di Ðà là kinh nặng tính van vái, cầu xin, quỵ lụy không thích hợp với Phật pháp hiện đại! Một thầy còn tuyên bố thẳng thừng: “Còn trẻ mà tu Tịnh Ðộ thì uổng quá! Tôi chỉ khi nào bịnh gần chết, không còn làm gì được nữa, mới đành chịu nằm niệm Phật! Người tu Tịnh Ðộ lúc nào cũng nghĩ đến cái chết, đôi vai trĩu nặng nỗi buồn. Thay vì cứ lẩm nhẩm niệm Phật, sao không quán tưởng cảnh giới mình đang sống đây chính là Cực Lạc”.

 Hậu quả tất nhiên là có không ít Phật tử mỗi Chủ Nhật đến chùa tụng một phẩm Pháp Hoa hay Kim Cang, niệm Phật dăm câu lấy có; thế là đã an tâm mình đã “mua sẵn vé” về cõi Cực Lạc, là đã tu nhiều lắm rồi! Chẳng ai bận tâm tìm hiểu giáo nghĩa kinh Di Ðà chi cả. Người tự nhận mình là hạ căn chỉ mong khi chết được vãng sanh, nhưng mấy ai bận tâm đến Tín - Hạnh - Nguyện! Những người tự coi mình là bậc thượng căn thì nếu có ai khuyên nên niệm Phật sẽ cười mũi, bảo chỉ có tham thiền hay quán tưởng, trì chú mới là pháp xứng đáng để họ tu tập thôi. Tiếc thay, tuy nói thế, họ cũng chẳng dụng công tọa thiền, cũng chẳng dụng công quán tưởng, trì chú, chỉ luôn nhai nhải: “Duy Tâm Tịnh Ðộ, tự tánh Di Ðà! Cực Lạc là đây, lựa tìm đâu xa!”, rồi vẫn an nhiên mặc cho quang âm vùn vụt thoáng qua!

Pháp môn Tịnh Ðộ nói chung và kinh Di Ðà bị hiểu lầm như thế có phải vì kinh Di Ðà không được giảng giải cặn kẽ hay không? Hoàn toàn không, từ xưa đến nay, ngoài hai kinh Kim CangTâm Kinh, có lẽ kinh Di Ðà đã được giảng và chú giải nhiều nhất. Tính cho đến hiện tại, đa số các vị giảng sư dù ít hay nhiều đều đã từng giảng qua bản kinh này. Ðiều đáng ngạc nhiên là ít có Phật tử nào chịu tìm đọc các bản chú giải kinh A Di Ðà, đành phải hiểu kinh qua cách diễn giảng của các vị giảng sư không mặn mòi với pháp môn Tịnh Ðộ. Do quá nhiệt tình đề xướng pháp môn của tông phái mình, các vị giảng sư ấy đã nhìn kinh Di Ðà qua lăng kính đầy thiên kiến, khiến thính chúng đã lầm càng lầm thêm. Ðiều đáng buồn là hai bản chú giải trác tuyệt là Di Ðà Yếu Giải và Di Ðà Sớ Sao đã được phiên dịch sang Việt ngữ từ lâu, nhưng có mấy người chịu đọc kỹ càng! Bao lẽ tinh yếu, sâu xa, huyền diệu của kinh Di Ðà đã được hai vị Tổ Sư Liên Trì và Ngẫu Ích phơi bày đến cùng cực. Theo mạt nhân thấy biết, mỗi khi giảng kinh, các vị giảng sư hoằng dương Tịnh Ðộ không ít thì nhiều đều phải dẫn trích ý kiến của nhị vị Tổ Sư.

 Năm 1984, trong một lần thọ Bát Quan Trai Giới, trong giờ nghỉ trưa, mạt nhân nghe một cụ đạo hữu lớn tuổi than vãn là đã tốn nhiều công đọc bản Sớ Sao, nhưng vẫn chưa thể lãnh hội nổi. Theo cụ, ý nghĩa của Sớ Sao quá uyên áo, quá phức tạp; tiếc thay từ ngữ, câu văn được dùng trong bản dịch lại quá cổ, dịch quá sát theo cú pháp Hán văn, nên rất khó cảm nhận được ý chỉ lời dạy của Tổ. Khi đọc qua Yếu Giải, tuy lời văn trong sáng, giản yếu hơn, cụ vẫn cảm thấy khó lãnh hội những phần Tổ luận về Chân Như, Thật Tướng... Cụ cho rằng để lãnh hội được phần nào hai bản chú giải trên, người đọc phải hiểu biết khá nhiều về Phật pháp cũng như phải hiểu được một số thuật ngữ chuyên môn của Hoa Nghiêm, Thiên Thai lẫn Duy Thức. Do thế, những người mới học Phật sẽ dễ chán nản, khó thể kiên nhẫn theo dõi toàn bộ hai bộ chú giải trên.

 Nghe lời than thở ấy, mạt nhân chợt suy nghĩ: sao mình không tổng hợp những lời giảng của các vị giảng sư cận đại Trung Hoa để tạo thành một cuốn chú giải kinh Di Ðà dễ hiểu hơn, ngõ hầu các hành nhân sơ cơ, chưa biết nhiều về Phật pháp có thể đọc hiểu được. Khi đã có khái niệm căn bản về những thuật ngữ thường dùng trong kinh, nắm được ý chính của kinh Di Ðà, họ sẽ lãnh hội được các bản Yếu Giải và Sớ Sao dễ dàng hơn.

 Ý định này nung nấu đã lâu, nhưng tháng ngày thoi đưa, mạt nhân vẫn chưa tìm được tài liệu vừa ý. Khi ấy, trong tay mạt nhân chỉ có Di Ðà Kinh Bạch Thoại Giải của lão cư sĩ Hoàng Trí Hải. Tiếc thay, tác phẩm này chỉ là viết lại ý kinh theo thể văn Bạch Thoại, cũng như giải thích đôi ba thuật ngữ Phật giáo, để những người không quen đọc cổ văn Trung Hoa có thể hiểu được nội dung kinh Di Ðà theo mặt văn tự, chứ không nêu lên kiến giảiđặc biệt. Ðã thế, lời văn lại quá rườm rà, chỉ thích hợp cho độc giả Trung Hoa, không bõ công dịch sang tiếng Việt. Sau này được đọc thêm cuốn Di Ðà Kinh Dị Giải của bà Hàn Anh, đổng sự trưởng Tịnh Tông Học Hội Ðài Loan, thì cuốn này cũng chỉ là bản rút gọn tác phẩm của cụ Hoàng Trí Hải, nên cũng không gợi lên một sự hứng thú nào. Khi sang Mỹ, do bận rộn với sinh kế và việc học, ý nguyện xưa tưởng chừng như quên lãng hẳn.

 Ngẫu hợp sao, giữa năm 2002, đạo hữu Minh Lập đã gởi tặng một loạt những bản chú giải kinh Di Ðà của các vị giảng sư cận đại như:

1) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Giảng Lục của pháp sư Ðạo Nguyên.

2) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Bạch Thoại Giảng Giải của Nam Ðình Hòa Thượng.

3) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Thích của Pháp Sư Bân Tông.

4) Phật thuyết A Di Ðà Kinh Yếu Giải Thân Văn Ký do pháp sư Bảo Tịnh giảng.

Kế đó, đạo hữu Không Châu gởi tặng một loạt sách Tịnh Ðộ. Trong ấy, có cuốn A Di Ðà Kinh Thông Tán Sớ của pháp sư Khuy Cơ đời Ðường. Ðã thế, đạo hữu Huệ Trang lại còn cho mượn cuốn Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Văn Châu. Trong một lần đi niệm Phật tại chùa Tịnh Ðộ, mạt nhân thỉnh được thêm cuốn Trùng Ðính Nhị Khóa Hiệp Giải của pháp sư Hưng Từ soạn (trong cuốn này, phần Di Ðà Kinh Huyền Nghĩa cũng chứa đựng nhiều kiến giải lý thú) và cuốn Tịnh Ðộ Tư Lương của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ (trong cuốn này, cụ Hoàng chỉ giảng sơ lược về kinh Di Ðà qua bài viết A Di Ðà Kinh Tông Yếu, Tín Nguyện Trì Danh).

Trước sự hiện hữu cùng lúc của bao nhiêu tác phẩm chú giải ấy, ý nguyện xưa chợt sống lại mạnh mẽ trong tâm trí. Tuy thế, mạt nhân vẫn băn khoăn không biết có nên tiến hành hợp dịch ý kiến chú giải của chư sư hay không, chỉ e mình sẽ làm một việc thừa thãi, vô ích. Sau khi thỉnh ý các vị đạo hữu Vạn Từ, Minh Tiến, Minh Lập, Huệ Trang và đều được hứa khả, khuyến khích, mạt nhân đánh bạo gạn lọc những ý chính trong những tác phẩm chú giải trên, chọn lấy những điểm đặc sắc, dịch thành một tác phẩm vụng dại, tạm đặt tên là A Di Ðà Kinh Hợp Giải.

Xét trong các bản chú giải trên, bản chú giải của Pháp Sư Bân Tông chi tiết nhất, nhiều ý tưởng độc đáo nhất, phân chia chương mục rõ ràng nhất, lại có cả phần hiển lý giống như Sớ Sao, nên mạt nhân chọn bản này làm gốc. Bản chú giải của pháp sư Khuy Cơ quá nặng về Duy Thức học nên không thích hợp lắm cho người sơ cơ. Vì thế, mạt nhân chỉ chọn lấy những điểm thật đặc sắcdễ hiểu.

Bản của pháp sư Văn Châu tuy không có nhiều ý tưởng độc đáo, nhưng cách phân chia thành mười môn lớn để chú giải rất giống với cách thích kinh của tổ Liên Trì nên mạt nhân tuân thủ cách phán định và phân chia chương mục của Văn pháp sư.

Khi chọn dịch, những đoạn chư sư nhắc lại ý kiến của chư vị Liên Trì và Ngẫu Ích, mạt nhân đều lược qua không dịch; bởi lẽ, những ý đó đã được phô diễn trọn vẹn trong hai bản Yếu Giải và Sớ Sao. Ðể hiểu những tư tưởng đó, phải đọc trong ngữ cảnh của Sớ Sao và Yếu Giải mới thấy chúng sâu sắc, tinh yếu tuyệt diệu đến dường nào! 

cố gắng hết sức, nhưng với trí huệ nông cạn, trình độ Phật học thiển cận, chắc chắn trong quá trình chọn lọc, chuyển ngữ, không thể nào tránh khỏi những lỗi lầm lẽ ra không nên có. Chỉ mong dịch phẩm thô lậu này sẽ giúp cho những hành nhân sơ cơ có được đôi chút kiến thức sơ cấp để làm hành trang tham cứu ban đầu hòng lãnh hội được những điểm u huyền, tinh túy trong Yếu Giải và Sớ Sao.

Nếu như việc làm liều lĩnh này đem lại chút lợi lạc nào thì xin hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sanh, những ai thấy nghe kinh Di Ðà đều khởi lòng tin kính sâu xa, đều chăm tu Tịnh nghiệp. Nguyện tất cả những hành nhân đồng hạnh Tịnh nghiệp sẽ cùng được hội ngộ nơi quê hương Cực Lạc.

Phật lịch 2547, tiết Lập Thu, Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa kính bạch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11964)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11115)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11349)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12068)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12562)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10768)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17985)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9950)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10169)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15344)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14329)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15369)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14842)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12688)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19667)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13112)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12671)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12267)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11853)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10905)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11954)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11637)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14520)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12897)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12180)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15316)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11483)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14153)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant