Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

IV. Phương tiện lực dụng

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15430)
IV. Phương tiện lực dụng


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

IV. PHƯƠNG TIỆN LỰC DỤNG

 Lực dụng còn gọi là công dụng hay gọi tắt là Dụng của một bộ kinh. Hiệu quả thành tựu do việc tu hành gọi là Công, những ứng dụng phong phú từ việc thành tựu ấy gọi là Dụng. Hết thảy kinh điển nếu khôngcông dụng mầu nhiệm (diệu dụng) thì còn có ai chịu nhọc nhằn tu hành nữa ư?

Mỗi một bản kinh có một lực dụng riêng biệt. Chẳng hạn như Lăng Nghiêm lấy “ly ái đắc độ” (lìa ái nhiễm được độ thoát) làm dụng, kinh Bát Nhã lấy “thoát khổ phá vọng” làm dụng. Kinh này lấy “vãng sanh Cực Lạc, đắc bất thoái chuyển” làm dụng.

1. Luận về vãng sanh:

Do hành nhân niệm Phật có siêng - lười, định - tán, sự - lý, mê - ngộ, đới nghiệp - bất đới nghiệp sai khác, nên vãng sanh về bốn cõi Tịnh Ðộ sai khác, phẩm vị đại lược chia thành chín phẩm vãng sanh.

- Nếu chấp trì danh hiệu, nhưng chưa đoạn được Kiến hoặcTư hoặc, đới nghiệp vãng sanh, thì chỉ có thể sanh vào Ðồng Cư Tịnh Ðộ, thấy hóa thân của Phật A Di Ðà, nghe giảng ba mươi bảy đạo phẩm sanh diệt, ngộ được Phật tánh thiên không. Ðây là căn tánh được hóa độ bởi Tạng Giáo. Lại tùy theo tín tâm sâu hay cạn, nguyện lực lớn hay nhỏ, công hạnh siêng hay lười mà phân thành ba bậc chín phẩm.

- Nếu trì niệm danh hiệu đến mức sự nhất tâm bất loạn, tùy phần đoạn được một trong hai thứ Kiến HoặcTư Hoặc, sẽ sanh về cõi Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ, thấy được Liệt Ứng Thân của Phật A Di Ðà, nghe giảng ba mươi bảy đạo phẩm vô sanh, ngộ được chân không Phật tánh. Ðây là căn tánh được hóa độ bởi Thông Giáo.

- Nếu niệm đến mức lý nhất tâm bất loạn, phá rỗng toang từ một phẩm cho đến bốn mươi mốt phẩm vô minh thì sẽ sanh về cõi Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Ðộ, cũng chứng được một phần Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, thấy Thắng Ứng Thân của Phật A Di Ðà, nghe giảng vô lượng ba mươi bảy đạo phẩm, ngộ trung đạo Phật tánh. Ðây là căn tánh được hóa độ bởi Biệt Giáo.

- Nếu đã đoạn sạch hết vô minh, thì sẽ rốt ráo sanh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, thấy Pháp Thân Phật, nghe giảng vô tác ba mươi đạo phẩm, giác ngộ Trung Ðạo Phật tánh viên mãn. Ðây là căn tánh được hóa độ bởi Viên giáo.

Ðiều cần lưu ý là Tịnh Ðộ tuy phân bốn cõi như thế, nhưng chẳng phải thật sự có bốn cõi Tịnh Ðộ riêng biệt. Cùng một cõi Tịnh Ðộ, do mức độ chứng đắc khác nhau mà thấy thành bốn cõi Tịnh Ðộ.

Ba bậc chín phẩm vãng sanh như Quán kinhkinh Vô Lượng Thọ đã rộng giảng.

Theo Ngài Quán Nguyệt Tử Hưng Từ Pháp Sư phán định trong Nhị Khóa Hiệp Giải, chín phẩm vãng sanh có thể phán định theo biểu đồ sau:

Phẩm vị vãng sanh

Công hạnh

Ðoạn hoặc

Ðịa vị

Viên giáo

Biệt giáo

Thượng thượng

Ðại Thừa hạnh

Phá Kiến, Tư hoặc

Thập Tín

Ðạo Chủng Tánh Thập Hướng

Thượng trung

Bát Tín, Cửu Tín

Tánh Chủng Tánh Thập Hạnh

Thượng hạ

Từ Thất Tín trở xuống

Tu tập tánh Thập Trụ

Trung thượng

Nhị thừa hạnh

Ðã chế phục hoặc

Quán Hạnh ngũ phẩm

Thập Tín

Trung trung

Trung hạ

Thiện hạnh thế gian

Hạ thượng

Chỉ làm ác

Chưa đoạn hoặc

Danh tự

 

Hạ trung

Hạ hạ

2. Luận về bất thoái chuyển:

Thoái chuyển nghĩa là lui sụt công hạnh, đánh mất đạo tâm ban đầu. Người vãng sanh cõi Cực Lạc sẽ chứng được ba loại bất thoái chuyển:

1. Vị bất thoái: Người đới nghiệp vãng sanh về cõi Phàm Thánh Ðồng Cư Tịnh Ðộ, gởi thân nơi hoa sen, vĩnh viễn chẳng còn bị đọa trở lại vào nhân gian nữa, nên địa vị sẽ không bị lui sụt.

2. Hạnh bất thoái: Ðã đoạn được Kiến hoặc, Tư hoặc, cũng phá được cả Trần Sa hoặc thì mới sanh lên cõi Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Ðộ, hướng thẳng đến cực quả, vĩnh viễn chẳng lui sụt xuống cõi Ðồng Cư.

3. Niệm bất thoái: Phá vô minh, hiển Pháp Thân, sanh lên cõi Thật Báo Trang Nghiêm, chứng đắc một phần cõi Tịnh Quang của Như Lai, tâm tâm lưu nhập vào biển Nhất Thiết Trí.

Lại còn có một loại gọi là Cứu Cánh Bất Thoái, nghĩa là chẳng cần biết là tán tâm, định tâm, tin hay không tin v.v... chỉ cần niệm một câu A Di Ðà hoặc nghe danh hiệu Ngài thoảng qua tai, dẫu trong đời này chưa được vãng sanh thì trong trăm ngàn vạn kiếp sau, rốt ráo cũng nhờ công đức ấy sẽ được độ thoát, sẽ được vãng sanh. Khác nào kẻ nuốt chất kim cang vào bụng chẳng thể tiêu trừ nổi, công đức niệm Phật cũng giống như thế!

Tóm lại, do căn cơ là lợi hay độn, do nghiệp là nặng hay nhẹ, do hạnh có sâu hay cạn sai khác mà đạt quả báo địa vị có hơn kém, cao thấp như thế. Nhưng cứ hễ đã được vãng sanh thì sẽ vĩnh viễn chẳng bị thoái chuyển, sẽ thành tựu quả Bồ Ðề rốt ráo viên mãn. Kẻ đới nghiệp vãng sanh sanh vào cõi Ðồng Cư liền chứng Vị Bất Thoái, thọ mạng dài lâu vô tận nên có thể trong một đời chứng được Nhất Sanh Bổ Xứ. Hễ đã được sanh về cõi Ðồng Cư, chắc chắn sẽ tiến lên ba cõi kia. Nói cách khác, một phen đã chứng được Vị Bất Thoái, sẽ lần lượt chứng được hai thứ Bất Thoái kia.

Như vậy, được vãng sanh cõi Cực Lạc thì không hạnh nào chẳng thành tựu, không việc gì chẳng hoàn thành. Lực dụng như thế, thiên kinh vạn quyển chưa hề thấy có. Nếu chẳng phải là do đại nguyện lực của Phật A Di Ðà, làm sao có được công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy? Xin hãy siêng gắng tu tập để khỏi cô phụ tấm lòng bi mẫn vô lượng của đấng Từ Phụ!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11638)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11350)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17987)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10171)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15345)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12690)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19671)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13113)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12672)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11856)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10908)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11639)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13628)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11486)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19706)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant