Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

V. Tạng giáo sở nhiếp

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15568)
V. Tạng giáo sở nhiếp


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

V. TẠNG GIÁO SỞ NHIẾP (phân định kinh này thuộc về tạng nào, thời giáo nào)

Tạng có nghĩa là tích chứa, tàng trữ. Giáo pháp một đời đức Phật đã thuyết được kết tập thành tạng. Tạng có hai loại: Nhị TạngTam Tạng.

 - Nhị TạngBồ Tát tạngThanh Văn tạng.

 - Tam TạngKinh Tạng, Luận TạngLuật Tạng.

1. Phán định về Tạng:

Kinh này từ đầu đến cuối không đề cập đến việc trì giới, cũng chẳng luận nghị, chỉ chuyên dạy niệm Phật, phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Ðộ nên phải thuộc về Kinh Tạng.

Kinh này lại hoằng dương Ðại Thừa, tuyên dương đấng Giáo Chủ cõi Cực Lạc, dù dạy chúng sanh chán khổ ưa vui, cầu sanh Cực Lạc, nhưng cốt yếu là để gặp Phật nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn rồi sẽ trở lại Sa Bà, giáo hóa chúng sanh. Ðấy đều là hạnh Bồ Tát, cho nên kinh này phải thuộc về Bồ Tát Tạng.

2. Phán định giáo tướng:

Những lời chư Phật, chư thánh giảng dạy được gọi là Giáo. Việc phân định, xếp loại thứ tự thánh giáo của đức Như Lai thường được gọi là “phán định giáo tướng” hay gọi tắt là “phán giáo”.

 * Theo đại sư Khuy Cơ, tính cho đến thời Ðại Sư, đã có những thuyết phán giáo sau đây:

a. Thuyết Nhất Thời Giáo: do Ngài Tam Tạng Bồ Ðề Lưu Chi (Tàu dịch là Giác Thọ) đời Bắc Ngụy đề xướng. Nghĩa là tuy giáo pháp của đức Phật chỉ có một thời, nhưng vì có hai ý nghĩa bất đồng nên tựa hồ có nhiều giáo pháp:

 a.1. Giáo đồng căn dị: Như nước mưa chỉ có một vị, nhưng ba loại dược thảo, hai loại cây cối được thấm nhuần sai khác. Tức là giáo pháp vốn chỉ là một, nhưng chúng sanh ngộ giải bất đồng, do căn cơ chúng sanh khác nhau nên tựa hồ có nhiều giáo pháp khác nhau.

 a.2. Lý đồng chứng dị: Lý tuy chỉ một nhưng sự chứng đắc của tam thừa có sai khác, như cùng một dòng sông, ba loài thú cùng lội qua, chân đạp xuống nước sâu cạn sai khác.

b. Thuyết Tiệm Ðốn Giáo: do Ngài Ðàm Vô Sấm đời Tống lập ra.

 b.1. Ðốn giáo là những thuyết như nhị không, tam tánh, tam vô tánh, bát thức, nhị vô ngã v.v...

 b.2 Tiệm giáo là những giáo pháp như Tứ Ðế, Duyên Sanh, Ngũ Giới, Bát Giới v.v...

c. Thuyết Tam Thời Giáo (còn gọi là Tam Giáo): do Ngài Chân Ðế Tam Tạng Pháp Sư thời Lương đề xướng. Tam thời giáo là:

 c.1. Hữu giáo: trong vòng 7 năm đầu kể từ khi thành Phật, đức Thế Tôn nói ra Hữu giáo, dùng pháp Thanh Văn để độ các vị như năm anh em Kiều Trần Như, Xá Lợi Phất, Ca Diếp v.v... 

 c.2. Không giáo: Từ năm thứ tám đến năm thứ ba mươi tám, Ðức Phật chuyên giảng về học thuyết Bát Nhã. Ðó là Không Giáo.

 c.3. Phi hữu phi không giáo: Từ năm thứ 39 cho đến khi Phật nhập Niết Bàn, Ngài chuyên giảng về giáo pháp phi hữu phi không như các kinh Pháp Hoa, Lăng Già, Tư Ích...

d. Thuyết Tứ Thời Giáo: do Khuất Ða Cấp Ða Tam Tạng đề xướng; chia một đời giáo hóa của đức Như Lai thành bốn thời:

 d.1. Sanh không giáo: tức là thời gian trong 12 năm đầu sau khi thành Phật, đức Thế Tôn giảng thuyết các bộ kinh giảng về nhân không như A Hàm... 

 d.2. Pháp không giáo: Từ năm thứ 13 đến năm thứ 38, Phật giảng các bộ kinh dạy về pháp không như tám bộ Bát Nhã v.v...

 d.3. Pháp tướng giáo: Từ năm thứ 39 đến năm thứ 49, Phật giảng các kinh như Lăng Già, Tư Ích, Pháp Hoa v.v... chỉ bày các pháp như bách pháp, tam tánh, tam vô tánh, bát thức, nhị vô ngã v.v... Do chú trọng đến phân chia danh mục, số loại của các pháp nên gọi là Pháp Tướng.

 d.4. Quán hạnh giáo: tức là thời gian giảng về pháp môn Pháp Giới Quán của kinh Hoa Nghiêm...

e. Thuyết Ngũ Thời Giáo: do Lưu Cư Sĩ đời Tấn đề xướng, chia giáo pháp thành năm thời:

 e.1. Nhân thiên giáo: là những giáo pháp được giảng trong 21 ngày sau khi Ðức Phật thành đạo; gồm các giáo pháp như Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện v.v... vì thính chúng chưa có thiện căn xuất thế. Thuyết này bị Ngài Giác Thọ (Bồ Ðề Lưu Chi) bắt bẻ: “Kinh Ðề Vị nói nhóm năm trăm người lái buôn như Ðề Vị v.v... thọ Ngũ Giới, Phật dạy họ trước hết phải sám hối các tội Ngũ Nghịch, Thập Ác. Thế Tôn dạy: ‘Tứ đại vốn tịnh, cái Ta vốn tịnh’, Ðề Vị liền đắc Vô Sanh Nhẫn; năm trăm người lái buôn đắc Nhu Thuận Nhẫn. Lẽ nào đấy chỉ là giáo pháp thuộc nhân thiên ư?”

 e.2. Sanh không giáo: tức là giáo pháp Nhị Thừa được giảng trong mười hai năm đầu tiên.

 e.3 Pháp không giáo: là những giáo pháp được giảng trong mười tám năm kế đó.

 e.4. Câu không giáo: tức là thời gian giảng tám bộ Bát Nhã.

 e.4. Phi hữu phi không giáo: tức là thời gian từ năm thứ 49 sau khi Ðức Phật thành đạo trở đi. Thời gian này Ngài giảng các kinh như Lăng Già, Pháp Hoa v.v...

 Ðại Sư Khuy Cơ chỉ nêu ra các giáo như thế nhưng không khẳng định kinh này thuộc về giáo nào trong những thuyết trên. Tuy thế, những thuyết phán giáo trên đây không được phổ biến và vận dụng rộng rãi bằng hai thuyết Ngũ Thời Bát Giáo của tông Thiên ThaiNgũ Giáo của tông Hoa Nghiêm.

a. Ngũ thời Bát giáo:

a.1. Bát giáo:

Bát giáo gồm “hóa nghi tứ giáo” (bốn phương pháp hóa độ thuận theo căn cơ) và “hóa pháp tứ giáo” (bốn phương pháp giáo hóa dựa theo mức độ giải ngộ).

Hóa nghi tứ giáo gồm: Ðốn, Tiệm, Bất Ðịnh, Bí Mật. Hóa pháp tứ giáo gồm Tạng (Tiểu Thừa), Thông (bao gồm cả Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa, nhưng mới chỉ là những giáo pháp sơ khởi của Ðại Thừa), Biệt (giáo pháp Ðại Thừa dành riêng cho hàng Bồ Tát), và Viên (những giáo pháp viên dung vô ngại, hàm nhiếp trọn vẹn tất cả các giáo pháp, là giáo pháp cao tột nhất trong các giáo pháp Ðại Thừa).

a.2. Ngũ thời:

- Thời Hoa Nghiêm: Phật hiện thân to lớn, giảng kinh Hoa Nghiêm cho những bậc căn cơ Ðại Thừa viên đốn, chuyên giảng về Viên Giáo, nhưng đôi chỗ có kèm Biệt giáo.

- Thời A Hàm: Phật hiện thân trượng sáu, giảng pháp cho thính chúng căn cơ Tiểu Thừa, chỉ dạy về Tạng GiáoNhị Thừa Tiểu Quả.

 - Thời Phương Ðẳng: đối với căn cơ Tiểu Thừa, Phật giảng Tạng Giáo; đối với căn cơ Ðại Thừa, Phật dạy Viên, Thông, Biệt Giáo.

 - Thời Bát Nhã: dù kiêm thuyết lý tánh quyền hiện, nhưng chủ yếu là Thật Lý viên mãn của Viên Giáo.

 - Thời Pháp Hoa - Niết Bàn: quy nhiếp Tam Thừa về Nhất Thừa, khai thị tri kiến Phật.

b. Ngũ Giáo

Tức là:

- Tiểu (Tiểu Thừa): chỉ giảng pháp không, chưa giảng Ngã Không.

- Thỉ (Ðại Thừa Thỉ Giáo): căn cứ trên sự sanh diệt của tám thức, kiến lập những giáo nghĩa sanh tử, Niết Bàn, bàn rộng pháp tướng, nhưng chỉ mới luận đôi phần về pháp tánh. Tuy đã giảng về Tam Thừa, nhưng chưa hứa khả hàng định tánh Thanh Văn và Nhất Xiển Ðề có khả năng thành Phật. Vì chưa bàn cùng tột giáo lý Ðại Thừa nên gọi là Thỉ (bắt đầu).

- Chung (Ðại Thừa chung giáo): bàn cùng tận giáo nghĩa Ðại Thừa, căn cứ vào bát thức của Như Lai Tạng tùy duyên bất biến để lập giáo nghĩa, chú trọng đến pháp tánh, nhưng chỉ luận đôi chút về pháp tánh, chưa giảng chi tiết. Dù có giảng pháp tướng đi nữa, cũng đều quy về pháp tánh. Chung Giáo công nhận Xiển Ðề có khả năng thành Phật.

- Ðốn: Chỉ luận về Thật Tướng. Một niệm bất sanh thì gọi là thành Phật. Không cần bận tâm đến thứ tự tu tập từng bước nên gọi là Ðốn (nhanh chóng).

- Viên: Viên Giáo bao trùm cả bốn giáo trên, viên dung đầy đủ muôn pháp, duyên khởi vô ngại, pháp giới vô tận, không còn phân biệt giữa sự và lý nữa nên gọi là Viên (trọn vẹn).

3. Phán định giáo tướng của kinh này:

Nếu xét theo cách phán giáo của tông Hoa Nghiêm, kinh này thuộc về Viên Giáo lẫn Ðốn Giáo. Xét theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, kinh này tuy nằm trong thời Phương Ðẳng, nhưng lại thuộc về Viên Giáo.

Bởi Tạng giáoThông Giáo chẳng đề cập đến danh hiệu chư Phật ở phương khác, nên kinh A Di Ðà chẳng thể thuộc về Tạng và Thông giáo.

Người niệm Phật lại có thể vượt ngang ra khỏi ba cõi, vãng sanh Cực Lạc, đồng chứng ba thứ bất thoái nên kinh này phải thuộc về Ðốn Giáo.

Trong năm thời, thời Hoa Nghiêm nhằm lúc Phật mới thành đạo, Ngài vì hàng pháp thân đại sĩ giảng giải cảnh giới Như Lai, chúng Thanh Văn ngồi dự pháp hội như đui, như điếc, chẳng lãnh hội được gì. Kinh này lại chuyên dạy chúng sanh đời mạt, ác thế ngũ trược, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, nghĩa là: đối tượng được hóa độ của kinh này là hết thảy hữu tình, nên kinh này không thể nào thuộc về thời Hoa Nghiêm được.

Trong thời A Hàm, Phật chuyên dạy pháp Tiểu Thừa. Thế nhưng kinh này luận về công đức trang nghiêm y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, cũng như ý chỉ huyền nhiệm rốt ráo thành Phật, nên cũng không thể nào thuộc về thời A Hàm được.

Trong thời Bát Nhã, Ðức Phật chuyên luận về những pháp mà Bồ Tát phải học. Kinh này chẳng phân biệt căn cơ chúng sanh, bất cứ ai nếu chí thành niệm Phật đều có thể được vãng sanh. Bởi đó, kinh này chẳng thể thuộc về thời Bát Nhã.

Thời Pháp Hoa khai quyền hiển thật (vạch rõ những pháp phương tiện, trực chỉ thật lý Nhất Thừa), khai thị tri kiến Phật; thế nhưng kinh này chỉ chuyên dạy Trì Danh, nên chẳng thuộc về thời Pháp Hoa được.

Bởi những lẽ trên, kinh này phải thuộc về thời Phương Ðẳng.

Hơn nữa, kinh Di Ðà bao hàm diệu lý viên đốn, trước thì thông tiếp kinh Hoa Nghiêm, sau thì thông tiếp kinh Pháp Hoa; cho nên phán định kinh này thuộc về thời Phương Ðẳng rất hợp lý

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14726)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11785)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12737)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10309)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12032)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15252)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11045)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10487)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12435)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16389)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14271)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11741)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14764)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11997)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16788)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11549)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12707)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11317)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12031)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52049)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15437)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13944)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11413)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13142)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12752)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13189)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17878)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12421)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12621)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54169)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14396)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9901)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13797)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57920)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14465)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20094)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13746)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15373)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17469)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13295)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11896)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13468)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14633)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12457)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12136)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12044)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13265)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12515)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13646)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13305)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25529)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12164)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14515)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11822)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42035)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28285)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38756)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14702)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12677)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16228)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant