Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VIII. Dịch truyền cảm thông

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15362)
VIII. Dịch truyền cảm thông


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

VIII. DỊCH TRUYỀN CẢM THÔNG (các bản dịch, bản được lưu truyền, những sự cảm ứng do tụng trì kinh này)

A. Các bản dịch:

Từ Phạn ngữ, dịch sang Hán văn có hai bản dịch:

 1. Bản thứ nhất mang tên Phật Thuyết A Di Ðà Kinh, do Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch vào thời Dao Tần (394-415).

 2. Bản thứ hai mang tên Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ Kinh do Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch vào đời Ðường.

 Hai bản dịch này đại đồng tiểu dị, bản dịch của Ngài Huyền Trang chi tiết hơn, nhưng kém phần bóng bẩy hơn so với bản dịch của Ngài La Thập. Hiện tại, bản được lưu truyền rộng rãi hơn cả là bản dịch của Ngài La Thập (thường gọi là bản Tần dịch).

 Ngoài hai bản dịch này, hiện còn một bản hội tập hai bản kinh trên do cư sĩ Hạ Liên Cư soạn. Ngoài Tịnh Ðộ Cư Sĩ Lâm Trung Hoa, bản hội tập này không được sử dụng phổ biến cho lắm. Theo Chúng Kinh Mục Lục, vào đời Lưu Tống, kinh này cũng được Ngài Cầu Na Bạt Ðà La dịch với tựa đề Tiểu Vô Lượng Thọ Kinh nhưng đã thất truyền.

 Khi chú giải các kinh này, từ xưa đến nay, các nhà sớ giải kinh đều dùng bản của Ngài La Thập. Ngay cả đại đệ tử của pháp sư Huyền Trang là Ngài Khuy Cơ khi sớ giải kinh cũng dùng bản của Ngài La Thập, có lẽ vì bản này phổ biến hơn cả.

 B. Các bản chú giải:

Từ xưa đến nay, kinh này được chú sớ rất nhiều, nhưng bị thất truyền rất nhiều. Hiện tại, chỉ còn giữ lại được một số bản chú giải như sau:

 1. A Di Ðà Kinh Nghĩa Ký, 1 quyển, do Ngài Trí Khải soạn thuật vào đời Tùy.

 2. A Di Ðà Kinh Nghĩa Thuật, 1 quyển, do Ngài Huệ Tịnh soạn vào đời Ðường.

 3. A Di Ðà Kinh Thông Tán Sớ, 3 quyển, do Ngài Khuy Cơ soạn vào đời Ðường.

 4. A Di Ðà Kinh Sớ, 1 quyển, do Ngài Khuy Cơ đời Ðường soạn.

 5. A Di Ðà Kinh Sớ, 1 quyển, do Ngài Hải Ðông Nguyên Hiểu người xứ Tân La soạn.

 6. A Di Ðà Kinh Sớ, do Ngài Trí Viên soạn vào đời Tống.

 7. A Di Ðà Kinh Nghĩa Sớ do Ngài Linh Chi Nguyên Chiếu đời Tống soạn.

 8. A Di Ðà Kinh Cú Giải do Ngài Tánh Trừng soạn vào đời Nguyên.

9. A Di Ðà Kinh Lược Giải của Ngài Ðại Hựu thời Nguyên.

 10. A Di Ðà Kinh Sớ Sao do Ngài Vân Thê Liên Trì soạn vào thời Minh.

 11. A Di Ðà Kinh Lược Giải Viên Trung Sao, 2 quyển, do Ngài U Khê Truyền Ðăng soạn.

12. A Di Ðà Kinh Yếu Giải do Ngài Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc soạn vào cuối đời Minh.

 13. A Di Ðà Kinh Yếu Giải Giảng Nghĩa của Viên Anh Pháp Sư đời Thanh.

14. A Di Ðà Kinh Thiệt Tướng của Ngài Tịnh Ðĩnh soạn.

 15. A Di Ðà Kinh Trực Giải Chánh Hạnh của Liễu Căn Toản soạn.

 16. A Di Ðà Kinh Lược Chú của Ngài Tục Pháp soạn.

 17. A Di Ðà Kinh Trích Yếu Dị Giải do Ngài Chân Tung soạn.

 18. A Di Ðà Kinh Ước Luận của cư sĩ Bành Tế Thanh soạn vào đời Thanh.

 19. A Di Ðà Kinh Thích và A Di Ðà Kinh Chú của Trịnh Trừng Ðức và Ðặng Trừng Nguyên hợp soạn.

 20. A Di Ðà Kinh Tiên Chú của cư sĩ Ðinh Phước Bảo (ông này cũng là tác giả của bộ Phật Học Ðại Từ Ðiển).

Từ bản A Di Ðà Kinh Sớ Sao, Ngài Trí Nguyện tổng kết những lời giảng của chư cổ đức đời Minh soạn ra ba tác phẩm: A Di Ðà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa, A Di Ðà Kinh Sớ Sao Vấn Biện, A Di Ðà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa.

Ngài Ðạt Mặc (không rõ thời đại) soạn lời Sao cho cuốn Yếu Giải của Tổ Trí Húc, đặt tên là A Di Ðà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao,

 Trong các bản chú giải kinh trên đây, bản Yếu Giải của Ngài Ngẫu Ích được Tổ Ấn Quang tán dương như sau: “Lý sự đều đạt đến chỗ tuyệt diệu, kể từ khi Phật thuyết kinh này đến nay, Yếu Giải là bản chú giải bậc nhất, khéo léo nhất, xác thực nhất. Ví dù cổ Phật xuất thế chú giải lại kinh này cũng chẳng thể hay hơn được nữa”. Vì thế, trong các bản chú giải kinh A Di Ðà, tác phẩm A Di Ðà Kinh Yếu Giải được lưu truyền mạnh mẽ nhất.

 Cho đến hiện tại, chư tôn cổ đức vẫn tiếp tục diễn giảng kinh A Di Ðà và trước tác rất nhiều tác phẩm mới để phu dương mật nghĩa của kinh này nhưng kiến giải đa phần vẫn dựa theo hai tác phẩm Yếu Giải và Sớ Sao là chính.

 C. Sự cảm ứng của việc trì kinh

Từ xưa đến nay, người trì tụng kinh này được cảm ứng rất nhiều, xin lược thuật một vài chuyện:

Theo Trí Ðộ Luận, có một vị tỳ kheo trì tụng kinh A Di Ðà, lúc sắp mạng chung, bảo đệ tử rằng: “A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng đều đến đón ta”. Mất rồi, đệ tử làm lễ trà tỳ, thấy cuống lưỡi của vị tỳ kheo ấy chẳng cháy, hình dáng, màu sắc vẫn tươi nguyên như khi còn sống.

Ông Ðường Thế Lương đời Tống tụng kinh Di Ðà đến mười vạn biến. Một ngày nọ bảo người nhà: “Phật đến đón ta”. Nói xong, làm lễ mà tịch. Ðêm ấy có kẻ đi buôn, ngụ bên núi Ðạo Vị, mộng thấy ánh sáng lạ lùng ở Tây Phương, phan, hoa vần vũ, âm nhạc réo rắt, trên không rền vang tiếng nói: “Ông Ðường Thế Lương đã sanh về Tịnh Ðộ”.

Ðời Tống, kẻ thảo dân Bằng Mân, thuở trẻ thích săn bắn. Một ngày nọ, đi săn gặp một con rắn to liền cầm giáo xông đến đâm. Khi ấy, rắn đang núp một gộp đá lớn, toan mổ một con bò vàng. Bằng Mân xô đá đè chết rắn. Khi được tái sanh, rắn nhiều phen tính trả thù, nhưng họ Bằng đã tu sám, niệm Phật đã lâu nên rắn chẳng làm gì được. Ðến một ngày nọ, ông thỉnh các bạn đồng tu Tịnh nghiệp tụng kinh Di Dà, ngồi chắp tay qua đời.

Ðời Tống, pháp sư Trí Tiên, hiệu Chân Giáo, trụ trì chùa Bạch Liên, suốt mười ba năm hướng về Tây niệm Phật, trong 12 thời chưa từng thiếu sót công phu. Một chiều nọ, Sư mỉm cười, sai quán đường hành nhân tụng kinh A Di Ðà. Tụng chưa xong, Sư đã an nhiên tọa hóa.

Ngài Thích Xử Khiêm đời Tống chuyên tu Tịnh Ðộ. Một tối nọ, tụng kinh A Di Ðà xong, Ngài khen ngợi Tịnh Ðộ rồi bảo với đại chúng rằng: “Tôi đã đạt vô sanh mà sanh Tịnh Ðộ”. Liền như nhập thiền định, lặng lẽ mà hóa.

Ðời Tống, bà lão họ Chung ở quận Gia Hòa, mỗi ngày tụng kinh Di Ðà mười biến, niệm Phật chẳng bỏ sót ngày nào. Một ngày nọ bà bảo con: “Ta thấy hoa sen trắng vô số, thánh chúng đến đón ta”. Rồi ngồi ngay ngắn, lặng lẽ qua đời.

Hoài Ngọc thiền sư người Ðài Châu, chuyên mặc áo vải, ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, tinh tấn niệm Phật, tụng kinh Di Ðà đến ba mươi vạn biến. Một ngày kia thấy Tây Phương thánh chúng nhiều như cát sông Hằng. Một vị tay cầm đài bạc, theo cửa sổ mà vào. Sư hỏi: “Tôi một đời tinh tấn, thề lấy được đài vàng, sao lại như thế này?” Ðài bạc liền ẩn mất. Sư càng cảm khích, tinh tấn gấp bội. Hăm mốt ngày sau, thấy Phật hiện chật cả không trung, bèn bảo đệ tử: “Kim đài đã đến đón, ta sanh về Tịnh Ðộ đây!” Rồi đọc kệ, mỉm cười mà tịch.

Năm Ðại Lịch thứ chín đời Nguyên, Tử Hoa thiền sư trụ tại chùa Quán Âm ở Nhuận Châu, tụng kinh Di Ðà suốt sáu tháng, chợt mắc bệnh. Ðêm ngửi thấy mùi hương, nghe tiếng âm nhạc, trên không có tiếng bảo: “Sự vui thô thiển đã qua, sự vui tinh tế sẽ tiếp nối. Ngài sẽ vãng sanh”. Chẳng lâu sau, sư niệm Phật viên tịch, mùi hương ngào ngạt suốt mấy ngày chẳng tan.

Ngay cả cầm thú cũng được lợi lạc do việc trì kinh này. Quán công ở chùa Chánh Ðẳng tại Hoàng Nham, có nuôi một con nhồng (tên một loài chim), thường dạy nó niệm Phật chẳng ngớt. Về sau, con nhồng chết đứng trong lồng. Quán công đem chôn, ít lâu sau, trên mộ chim mọc lên một đóa hoa sen tím. Bới đất để tìm gốc sen, thấy hoa sen ấy mọc ra từ lưỡi con nhồng.

 Sự cảm ứng của kinh Di Ðà rất nhiều, chẳng thể thuật trọn. Chúng ta là hạng phàm phu khổ não chúng sanh, muốn thoát ly biển khổ, mong vượt khỏi tam giới, thật phải nên buông bỏ vạn duyên, nhất tâm niệm Phật thì đương nhiên sẽ hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14754)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11825)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12758)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10341)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12067)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15291)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11079)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10535)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12471)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16427)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14308)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11785)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14798)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12030)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16851)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11586)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12735)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11342)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12057)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52117)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15464)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13965)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11441)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13171)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12784)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13219)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12444)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12653)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54204)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14424)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9931)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13824)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57966)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14497)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20139)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13780)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15399)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17492)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13310)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11923)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13487)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14659)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12488)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12155)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12062)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13289)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12540)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13657)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13321)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25597)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12176)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14559)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11859)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42072)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28335)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38799)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14718)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12689)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16237)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant