Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thay lời kết

16 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 15893)
Thay lời kết


A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI

Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa hợp dịch

THAY LỜI KẾT

Xin mượn lời kết luận của pháp sư Văn Châu để kết thúc cuốn Hợp Giải này:

“Bút giả trộm nghĩ: Chẳng nghe, chẳng biết đến kinh này, nên chẳng tín, chẳng hạnh, chẳng nguyện thì tuy là đáng thương, nhưng vẫn còn có thể chấp nhận được. Chứ ai đã được nghe, xem đọc kinh này, đã biết pháp môn Niệm Phật thù thắng như thế ấy, nhưng nghe mà chẳng tin, hoặc tin nhưng chẳng nguyện, chẳng hạnh, thì chẳng những chỉ phụ bạc đấng Thích Tôn là đấng đã thực hiện được việc khó này, đã nói pháp khó tin này; mà còn là phụ bạc chính mình, lãng phí kiếp sống này vậy!

Phải biết rằng: Chúng ta sống gởi trong cõi Sa Bà, ngoài thì bị việc người vùi dập, khiến cả thân lẫn tâm đều bị tổn thương; trong thì phiền não gây khốn đốn, bệnh tật vây hãm, khổ thật chẳng thể nói nổi. Nay được nghe diệu pháp này, khác nào bệnh nặng liệt giường, chợt được thần lực, kẹt ở đất khách lâu ngày, chợt gặp thuyền bè...

Cổ nhân nói:

Cấp cấp mang mang khổ khổ cầu,

Hàn hàn noãn noãn độ xuân thu,

Triêu triêu mộ mộ doanh gia kế,

Muội muội hôn hôn bạch liễu đầu,

Thị thị phi phi hà nhật liễu,

Phiền phiền não não kỷ thời hưu,

Minh minh bạch bạch nhất điều lộ,

Vạn vạn thiên thiên bất khẳng tu

(Tạm dịch:

Gấp gáp bộn bề khổ nhọc cầu,

Lạnh nồng đã trải mấy xuân thâu,

Sáng trưa chiều tối lo gia sự,

Mờ mịt, u mê bạc trắng đầu,

Ðúng đúng, sai sai phân biện mãi,

Phiền phiền não não dễ ngừng đâu?

Một con đường chánh luôn ngời rạng,

Ngàn vạn muôn phần chẳng chịu tu!)

Ðáng tiếc biết bao!

Phải biết rằng:

Nhất cú Di Ðà tối phương tiện,

Bất phí công phu, bất phí tiền,

Ðản giao nhất niệm vô gián đoạn,

Hà sầu bất đáo pháp vương tiền.

(Một câu Di Ðà phương tiện mầu,

Nào tốn công phu, chẳng tốn xu,

Cốt sao nhất niệm đừng gián đoạn,

Sanh trước pháp vương há phải sầu?)

Hoặc có người bảo: ‘Ta nay đang lúc tráng niên, phải dốc tâm lo sự nghiệp, làm sao niệm Phật được?’ Nào có biết rằng: Sự có thành, hoại, hưng, suy, nhưng thời gian đã qua chẳng hề trở lại, tuổi trẻ khôn tìm lại, một mai vô thường xảy đến, có hối cũng muộn rồi! Cổ nhân nói:

Mạc đạo lão niên phương học đạo,

Cô phần đa thiểu thiếu niên nhân.

(Chớ bảo đến già toan học đạo,

Mồ hoang bao kẻ tuổi đầu xanh)

...Liên Trì Ðại Sư nói rất hay:

‘Pháp môn Niệm Phật bất luận nam, nữ, Tăng, tục, quý, hèn, hiền, ngu, không có một ai là chẳng niệm Phật được! Nếu là người phú quý, của cải dư dả thì đúng là phải niệm Phật. Nếu là kẻ bần cùng, nhà hẹp, của ít thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người có con cháu, việc cúng bái tổ tiên đã có chỗ nhờ cậy thì rất nên niệm Phật. Nếu là người không con, trơ trọi một thân tự do thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai có con hiếu thuận, yên hưởng con cái phụng dưỡng thì rất nên niệm Phật. Nếu ai có con ngỗ nghịch, chẳng sanh lòng yêu thương thì thật đúng là phải niệm Phật. Nếu ai vô bịnh, thân thể khỏe mạnh thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai có bịnh, rất gần cơn vô thường thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai già cả, tháng ngày chẳng còn mấy thì càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tuổi trẻ tinh thần sáng suốt thì thật là rất tốt để niệm Phật. Nếu ai an nhàn, tâm không bị sự gì khuấy động thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu là người bận rộn, được đôi lúc nhàn giữa khi bận rộn thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là người xuất gia, tiêu dao ngoài cõi đời thì càng phải nên niệm Phật. Nếu là kẻ tại gia biết cõi đời đúng là nhà lửa thì càng phải nên niệm Phật.

Nếu ai thông minh, thông hiểu Tịnh Ðộ thì rất nên niệm Phật. Nếu là kẻ ngu si, thô lỗ, không làm gì khác nổi thì thật đúng là nên niệm Phật. Nếu ai trì luật mà Luật lại do Phật chế ra; vì thế, rất nên niệm Phật. Nếu ai đọc kinh thì kinh là do Phật dạy, càng phải nên niệm Phật. Nếu ai tham thiền thì do Thiền là tâm Phật nên càng phải nên niệm Phật. Nếu ai ngộ đạo thì ngộ cần phải được Phật chứng; cho nên càng phải niệm Phật.

Khuyên khắp mọi người hãy cấp bách niệm Phật. Chín phẩm vãng sanh, hoa nở thấy Phật, gặp Phật nghe Pháp, rốt ráo thành Phật mới biết rằng tâm vốn dĩ là Phật’.

Ðọc lời này rồi thì còn có thể vin vào đâu để khỏi niệm Phật được chăng? Ấn Quang Ðại Sư nói: “Vô thường nhanh chóng, đường luân hồi hiểm nguy, già giặn, chắc thật niệm Phật, đừng thay đổi đề mục”. Nguyện những ai nghe đến, đọc đến những lời này hãy gắng lên!”

 

A DI ÐÀ KINH HỢP GIẢI HẾT

Phật lịch 2547, ngày 30 tháng 09 năm 2003

 

(1) Tam đồ, bát nạn: Tam đồ hay còn gọi là Tam Ác Ðạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bát nạn: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Trường Thọ Thiên (trong cõi trời này tâm tưởng không vận hành, không suy nghĩ, hay biết, tham đắm trong Vô Tưởng Ðịnh), sanh trong Bắc Câu Lô Châu (Uất Ðan Việt, quá sung sướng nên tham đắm hưởng lạc, không nghĩ gì đến đạo pháp), điếc - đui - câm - ngọng, thế trí biện thông (thông minh lanh lợi, biện bác nhạy bén, nhưng chỉ tin kinh sách ngoại đạo, không tin nhân quả), sanh trước Phật hay sau Phật. Tám nạn này trở ngại cơ duyên gặp Phật, nghe pháp tu hành nên gọi là Nạn.

(2) Ngũ trụ: nói cho đủ là Ngũ Trụ Ðịa Hoặc. Tức là:

- Kiến nhất thiết xứ trụ địa: kiến hoặc trong ba cõi như thân kiến, biên kiến....

- Dục ái trụ địa: phiền não trong cõi Dục, tức là phiền não do đắm trước Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.

- Sắc ái trụ địa: phiền não ở cõi Sắc do đắm trước sắc thân của chính mình.

- Hữu ái trụ địa: phiền não ở cõi Vô Sắc, tức là phiền não chấp trước do yêu mến tự thân.

- Vô minh trụ địa: tất cả vô minh trong ba cõi

(3) Thỉ Giác trí: Phật tánh ai ai cũng sẵn có gọi là Bổn Giác Trí. Do công năng tu tập, phiền não đoạn diệt thì Phật tánh mới hiển hiện. Phật tánh được hiển hiện đó gọi là Thỉ Giác Trí.

(4) Bách giới thiên như: Theo tông Thiên Thai, có mười giới: từ ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.. cho đến chư Phật. Trong mỗi giới lại có đủ mười giới, nên 10 x 10 = 100 giới. Trong mỗi giới lại có mười môn như thị; như thị tướng, như thị thể, như thị tánh.. (xem kinh Pháp Hoa) nên thành ra một ngàn như. Tông Thiên Thai dùng chữ “bách giới thiên như” để chỉ tất cả các pháp.

 

 (*) Nếu ước theo Hiền kiếp, chu kỳ của cõi Sa Bà tổng cộng 80 tiểu kiếp, gồm bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn dài 20 tiểu kiếp, phân ra như sau:

- Giai đoạn Thành: cõi đại địa, trời Lục Dục, Sơ Thiền v.v... thành lập.

- Giai đoạn Trụ: Ðại địa đã thành, chúng sanh an trụ. Trong tám tiểu kiếp đầu, không có Ðức Phật nào xuất thế. Trong kiếp thứ chín, khi thọ mạng giảm đến sáu vạn năm, đức Câu Lưu Tôn Phật xuất thế. Khi tuổi thọ giảm còn bốn vạn năm, Ðức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni xuất thế. Khi thọ mạng giảm còn hai vạn năm, Ca Diếp Phật xuất thế. Khi thọ mạng vừa đúng trăm năm, Phật Thích Ca xuất thế.

Trong đại kiếp thứ mười, khi tuổi thọ chỉ còn tám vạn năm, Ðức Phật Di Lặc xuất thế. Trong bốn tiểu kiếp tiếp đó, không có Phật xuất thế. Trong kiếp thứ mười lăm, có chín trăm chín mươi bốn Ðức Phật nối nhau xuất thế. Trong bốn kiếp tiếp đó, không có Phật xuất thế. Trong kiếp thứ 20, sau khi Ðức Phật tối hậu là Phật Lâu Chí nhập Niết Bàn, thế giới Sa Bà bước vào Hoại kiếp.

- Giai đoạn Hoại: Hỏa tai cháy tan đến tận trời Sơ Thiền.

- Giai đoạn Không: Từ trời Sơ Thiền trở xuống, không còn gì nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22293)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16019)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15027)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18951)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14446)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18628)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14428)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13584)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13548)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11818)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13254)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13650)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13935)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13248)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15024)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16161)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16451)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11904)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17595)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12873)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13703)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12859)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14855)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16384)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13125)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12083)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12772)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12910)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12771)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14174)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14109)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16473)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12377)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14383)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11307)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11025)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13191)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13890)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13158)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12999)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13502)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10223)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16265)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11965)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12972)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11644)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12669)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10796)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10933)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12753)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11067)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12614)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11322)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant