Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bản thể luận & đạo đức luận của Phật giáo qua pháp môn "Bất nhị"

17 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 32100)
Bản thể luận & đạo đức luận của Phật giáo qua pháp môn "Bất nhị"

Bản thể luận &
đạo đức luận của Phật giáo
qua pháp môn "Bất nhị"
Hà Thúc Minh

“Bất nhị” 不二 hay "vô nhị" 无二, tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt. “Bất nhị” là không phải cái này, cũng không phải cái kia. “Bất nhị” còn được gọi là “chân như”, “pháp tính”. Tuy nhiên, “bất nhị” thường được xem nhưphương pháp thuộc lĩnh vực nhận thức.

Phật học đại từ điển giải thích “pháp môn bất nhị” như sau: “Là pháp môn nhằm làm rõ chân lý tuyệt đối không phân chia. Chương Nhập bất nhị pháp môn (Chương IX trong mười bốn chương của Kinh Duy Ma) chuyên thuyết giảng về vấn đề này. “Bất nhị” là chỉ trạng thái siêu việt tuyệt đối, vượt khỏi mọi đối lập tương đối. Ví dụ như to-nhỏ, cao-thấp, đi-về, một-nhiều… Từ “Pháp môn” 法门, Sanskrit gọi là Dharmaparyaya, có nghĩa là phương pháp (môn, cánh cửa để đi vào).

"Phương pháp bất nhị" là phương pháp quan trọng nhất trong tám vạn bốn nghìn (chỉ về số nhiều) phương pháp nhận thức của Phật giáo.

Như đã nói, pháp môn "bất nhị" xuất xứ từ kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Sanskrit gọi là Vimalakirtinirdesa sutra, kinh điển của Phật giáo Đại thừa xuất hiện từ thế kỷ 1~2 sau công nguyên. Tương truyền, tác giả của nó là Bồ tát cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakirti, nghĩa đen là không bị nhuốm bẩn). Tuy nhiên, bản Sanskrit hầu như thất truyền, có bảy bản dịch Hán ngữ, nhưng hiện ở Càn Long Đại tạng kinh còn lưu trữ ba bản dịch Hán ngữ của Ngô Chi Khiêm (thời Tam quốc), Cưu Ma La ThậpHuyền Trang. Bản lưu hành phổ biến hơn cả là bản dịch Hán ngữ của Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, 344-413) vào thế kỷ thứ V. Học giả Trung Quốc thừa nhận rằng, quá trình Kinh Duy Ma truyền sang và ảnh hưởng ngày càng sâu rộng, cũng là lúc mà Phật giáo Ấn Độ được Hán hóa và trở thành môt phần không thể thiếu của văn hóa Trung Quốc.

Kinh Duy Ma với quan niệm chủ đạo về Bát nhã tính không, “bất khả tư nghị” “vô ngôn ngữ khả thuyết” cũng được Trung luận triển khai với pháp môn “bát bất”, Thiên Thai tông với “tam đế viên dung”, gọi là Không, Giả, Trung. Theo Thiên Thai tông, “không” dùng để phủ định mọi sự vật hiện tượng (không dĩ phá nhất thiết pháp), “giả” cốt để thừa nhận sự tồn tại của sự vật hiện tượng (giả dĩ lập nhất thiết pháp), “trung” là để thừa nhận sự tồn tại vi diệu của mọi sự vật hiện tượng (trung dĩ diệu nhất thiết pháp). Cho nên ba khái niệm đó cũng là tên gọi khác nhau của “pháp" mà thôi. Thiền tông với “bất lập văn tự, vô pháp khả thuyết”…

Theo Lỗ Tấn, thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, thiên hạ đặc biệt sùng bái ba cuốn kinh sách, đó là Luận ngữ, Đạo đức kinhKinh Duy Ma. Nhiều thi nhân, đại văn hào trong lịch sử Trung Quốc đều chịu ảnh hưởng sâu rộng của Kinh Duy Ma. Chẳng hạn như Vương Duy, Lý Thương Ẩn, Bạch Cư Dị, Vương An Thạch, Tô Đông Pha… Tuy nhiên, cũng không nên cho rằng mục đích chính của Kinh Duy Ma là nhằm chứng minh tu tại giaxuất gia là như nhau. Thực ra đó cũng chỉ là một trong nhiều hệ quả được rút ra từ bộ kinh mà thôi.

Hãy trở lại với chương Nhập bất nhị pháp mônkinh Duy Ma. Sau khi các vị Bồ tát đề xuất kiến giải của mình về “pháp môn bất nhị” và cũng đã nêu ra 31 phạm trù đối lập tương đối, Văn Thù Sư Lợi bèn thăm dò ý kiến của Bồ tát Duy Ma Cật. Duy Ma Cật vẫn im lặng không trả lời. Văn Thù Sư Lợi bèn ngộ ra rằng: “Thiện tai! Thiện tai! Quả thực pháp môn bất nhị chân chính không thể bằng văn tự ngôn ngữ là có thể diễn đạt được”. (文殊师利问维摩诘:‘我等各自说已,仁者当说何等是菩萨入不二法门?’时维摩诘默然无言。文殊师利叹曰:‘善哉!善哉!乃至无有文字语言,是真入不二法 门).(1)

“Bất nhị” cũng được gọi là “Chân như”, “Pháp tính”, cho nên nó cũng là vấn đề bản thể luận. Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó. Bởi vì bản thể của thế giới không phải là đối tượng như đối tượng của nhận thức luận thông thường, cho nên không thể dùng tư duy suy luận bình thường để diễn đạt (vì vậy nên Kinh Duy Ma còn gọi là kinh Bất Khả Tư Nghị). Khi dùng ngôn ngữ để khẳng định nó là gì thì cũng có nghĩa đồng thời phủ nhận nó không phải là cái đó. (Khẳng định tức là phủ định). “Bất nhị” của Kinh Duy Ma xem ra có nhiều điểm tương đồng với “Đạo” của Lão Tử trong Đạo đức kinh

Trong Đạo đức kinh, ngay từ chương mở đầu, Lão Tử đã chỉ ra tính hạn chế của ngôn ngữ:

“Nếu Đạo mà có thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt thì đó không còn là Đạo nữa. Tên gọi được quy định thì tên gọi đó cũng có thể thay đổi. “Vô” là chỉ trạng thái lúc trời đất còn hỗn tạp, “hữu” là chỉ trạng thái tồn tại của vạn vật. Cho nên “vô” là bản chất của Đạo, “hữu” là đầu mối của Đạo. “Vô” và “hữu” là cùng một nguồn gốc nhưng tên gọi khác nhau. Có thể nói “vô” và “hữu” hàm nghĩa rất sâu xa, vô cùng sâu xa, là nơi xuất phát huyền diệu của mọi sự vật trong trời đất”. (道可道非常道,名可名非常名。无名天地之始,有名万物之母。故常无欲以观其妙,常有欲以观其徼。此两者同出而异名. 同谓之玄, 玄之又玄众妙之门).

Khi nói về "Đạo" Lão Tử trước tiên cũng lưu ý rằng "Đạo" không phải là cái có thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt, bởi vì nó không phải là đối tượng nhận thức thông thường (Đạo khả đạo phi thường Đạo). Ngay ngôn ngữ mà người ta thường sử dụng cũng không phải là bất biến. Đại Trí Độ Luận, quyển 12 cũng cho rằng ngôn ngữ là cái mà con người dùng để chỉ về cái gì đó, nhưng tên gọi đó không phải là tự bản thân cái được gọi mà chỉ là một cái 'tên"(danh) mà con người gán cho nó mà thôi. Vì vậy đó cũng chỉ là cái "tên", hoàn toàn có thể thay đổi. Đại Trí Độ Luận gọi đó là “tồn tại nhờ ở tên gọi” (giả danh hữu 假名有)(2).

Trong kinh Duy Ma, chương Nhập bất nhị pháp môn, nhiều vị Bồ tát đã đề cập đến những cặp phạm trù về bản thể luận, chẳng hạn như Danh Pháp Tự Tại Bồ tát đề cập đến sinh-diệt, Thiện Nhẫn Bồ tát với nhất tướng-vô tướng, Thiện Ý Bồ tát với sinh tử-Niết bàn, Bồ tát Phất Sa đề cập đến triết lý nhân sinh thiện-ác cụ thể hơn cả. Tuy nhiên có thể thấy rằng giữa bản thể luận và triết lý nhân sinh không cách xa là mấy. Có thể nói bản thể luận là cơ sở vững chắc cho triết lý nhân sinh của Phật giáo. Triết lý nhân sinh, hay đạo đức luận của Phật giáo dựa vào “bản thể luận” (Ontology), còn triết lý nhân sinh hay đạo đức luận của Nho giáo lại thường dựa vào “chính trị luận”. Cho nên tính nhân bản của đạo đức Phật giáo rộng hơn nhiều so với Nho giáo. Đạo đức của Phật giáo là hướng về chúng sinh còn đạo đức của Nho giáo là hướng về giai cấp thống trị. Đó là trở ngại lớn nhất mà giai cấp phong kiến thống trị muốn hướng đạo đức Phật giáo phục vụ cho mục đích chính trị của mình.

Thực ra, ngay bài giảng đầu tiên của Đức Phật Thích Ca về Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Bát Chính đạo cũng đã thể hiện quan hệ chặt chẽ giữa bản thể luận và triết lý nhân sinh. Thực ra thế giới đang tồn tại không phải hoàn toàn như con người nhận thấy. Nó dựa lẫn vào nhau để tồn tại (duyên khởi) cho nên không có tự tính (tự tính không 自性空). Nói cách khác, thế giới này là "không" (sunya) là sự phủ định đối với tồn tại. Phải chăng đó cũng là đặc điểm của nhận thức luận phương Đông. Trong khi phương Tây cần đáp án "Nó" là cái gì, thì ở phương Đông lại muốn biết "Nó" không phải là cái gì. Thế giới tồn tại quanh ta không phải là cái như ta nhìn thấy, như ta biết. Nó không phải là cái gì trường tồn, bất biến để con người luôn bám lấy, luôn "chấp trước". Trăm năm của một kiếp người cũng chỉ như cơn gió thoáng qua, cho nên Cao Bá Quát xem nó như một cảnh phù du:

Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy,

Cuộc phù du trông thấy cũng nực cười.

Kể cũng nực cười thật, bởi vì có người tính đi tính lại cuộc đời tưởng đâu là to tát nhưng kỳ thực chỉ loay hoay với mấy tờ giấy chứ có gì đâu! Mới đẻ ra cất tiếng khóc chào đời, cha mẹ chạy cho tờ giấy khai sinh, lớn lên tò te đi học kiếm được vài chứng chỉ học lực, ra đời kiếm được vài tờ giấy bạc, cố gắng một chút may ra được vài tờ giấy khen… và đến khi nhắm mắt xuôi tay thì được tiễn đưa về bên kia thế giới bằng vài tờ giấy vàng mã…

Phan Bội Châu cũng ngậm ngùi vì tính ngắn ngủi của nó:

Nhân sinh như bóng đèn,

Như mây nổi,

Như gió thổi,

Như chiêm bao…

Cuộc đời quả thật chóng vánh, nhưng giá trị cuộc đời là gì, sống như thế nào là “phải đạo”, hình như chẳng mấy ai có điều kiện quan tâm đến bởi vì thiên hạ mải lo kiếm tiền. Thời buổi kinh tế thị trường ngoài đồng tiền, ngoài GDP ra còn gì quan trọng hơn mới được chứ? “Tiền” quan trọng đối với cuộc sống thật đấy, không có tiền lấy gì để sống?. Thiên hạ vất vả ngược xuôi, trăm phương nghìn kế để chiếm đoạt nó, thậm chí bất chấp cả làm ăn phi pháp. Tiền vạn năng thật, nó có thể đưa con người đến với quyền cao chức trọng, đến vinh hoa phú quý và đương nhiên là cũng có thể đưa con người vào quan tài để “suy ngẫm” về giá trị cuộc đời.

Thực ra, trên thế gian này tất cả đều là “không” (sunya), kể cả bản thân con người (ngã). “Ngã” do ngũ uẩn hợp thành cho nên cũng là “không” (vô ngã). Nếu Pháp “không”, Ngã “không” thì Tâm làm sao có thể vướng víu, hệ lụy vào hiện tượng nào đó trong cuộc sống được? Chẳng phải kinh Kim Cương đã lưu ý rằng “đừng để tâm phải phiền muộn vào bất cứ việc gì” (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Tuệ Trung Thượng Sĩ cho rằng thiền và “vô tâm” cũng chỉ là một mà thôi:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

(Đứng trước ngoại cảnh không để tâm vướng víu vào đâu cả. Nếu làm được như vậy thì không cần phải hỏi thiền là gì).

Tuy nhiên, “pháp” và “ngã” cũng không phải hoàn toàn là “không”. Pháp môn “bất nhị” chẳng phải đã chỉ ra rằng “không” và “có” không phải là hai (bất nhị) đó sao?

Nhân đây cũng cần nói thêm về sự tương đồng giữa kinh Duy MaĐạo đức kinh. Trong Đạo đức kinh, chương thứ 40, Lão Tử nói:

Phản giả đạo chi động, nhược giả đạo chi dụng. Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô. (返者道之动, 弱者道之用. 天下万物生於有, 有生於无). Có nghĩa là: Quay trở vềxu hướng vận động của Đạo. Mềm là biểu hiện của Đạo. Mọi vật trong thiên hạ sinh ra từ cái có (hữu), còn "hữu sinh ư vô" thường được dịch là "cái có sinh ra từ cái không" (vô), hoặc có người dịch là "cái trông thấy sinh ra từ cái không trông thấy"(1). Thực ra “hữu”, ”vô” không có nghĩa là trông thấy và không trông thấy. Người ta có thói quen tư duy thường tách đôi sự vật, chẳng hạn như giữa “có” và “không”, nếu theo quan điểm “bất nhị” thì sẽ nhận thức “có” và “không” của Lão Tử một cách chính xác hơn. Vậy nên “hữu sinh ư vô” là không phải “hữu” mà cũng không phải “vô”. Trong chương mở đầu Lão Tử chẳng phải đã nói rất rõ rằng “hữu”, “vô” chỉ là hai tên gọi khác nhau nhưng cùng xuất phát từ Đạo (đồng xuất nhi dị danh). Vậy thì làm gì có cái sinh trước để rồi sinh ra cái kia?

Nếu như thế gian này tuyệt đối là “không” vậy thì đó là đáp án có tính phủ định tuyệt đối. Phủ định cũng tức là khẳng định (Spinoza), cho nên phủ định tuyệt đối cũng là khẳng định tuyệt đối. Nếu vậy thì triết lý nhân sinh của Phật giáo quả thậtbi quan. Cuộc đời này chỉ là con số không chẳng có gì đáng kể. Thật ra không phải như vậy, triết lý của pháp môn “bất nhị” không phải là “không” mà là không - “không” (hay còn gọi là diệu hữu). Con ngườichúng sinh đều tồn tại trong thế giới hiện hữu (giả tướng) đó. Từ Bát Chính đạo đến Lục độ, Thất giác chi, Tứ niệm xứ… đều khuyên con người phải sống có ích, trung thực, chuyên cần, tinh tiến trong thế giới hiện hữu đó. Thiền tông cho rằng “Phiền não thị Bồ-đề” (phiền não tức là giác ngộ), “giải thoát” không phải ở xuất thế gian mà chính là ở thế gian phiền não này. “Tùy duyên” (Yathapratyaya) là triết lý nhân sinh tuyệt diệu của Phật giáo được học giả nghiên cứu về Phật giáo đánh giá rất cao. “Tùy duyên” là “thuận theo tự nhiên”, “khô ải tùy tha khô ải, phồn vinh tùy tha phồn vinh” (khô héo cứ mặc cho nó khô héo, phồn vinh cứ mặc cho nó phồn vinh), tự tại siêu việt mọi hữu vô, sinh tử, được mất, cùng thông…

Sống tùy duyên theo đời vui với đạo.

(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Phương châm sống của các Thiền sư thời Lý-Trần là “dĩ nghịch vi thuận”, nghĩa là sống theo đời nhưng không phải theo với đời.

Cuộc sống của con ngườichúng sinh đều được quý trọng như nhau. “Bất nhị” cũng có nghĩa là không phân biệt, là bình đẳng. Đại từ điển Phật học (Đinh Phúc Bảo) giải thích về quan niệm bình đẳng (bình đẳng quan) như sau:

“Đó là một tên gọi khác của thuyết “tam quán” của Thiên Thai tông. Nếu như phủ định cái hiện hữu (giả hữu) và chỉ khẳng định “không” (không quán) thì như vậy cũng chưa thể gọi là quan niệm bình đẳng. Nhận thức được cái hiện hữu (giả quán) không phải là như nó có, cho nên lấy “không” (không quán) để hóa giải cái giả hữu đó. Bây giờ lại biết được rằng “không” không phải là “không” (không phi không), bỏ cái “không” về với cái hiện hữu (giả hữu). “Không”, “giả” bổ sung nhau, như vậy mới gọi là quan niệm bình đẳng”.

Quan niệm về bình đẳng thường xuyên được đề cập đến trong nhiều kinh Phật, chẳng hạn như:

Kinh Kim Cương:

“Pháp vốn là bình đẳng không phân cao thấp”. (是法平等不分高下).

Kinh Hoa nghiêm:

“Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay! Chúng sinh trên thế gian này đều có trí tuệ, đức tướng Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, chấp trước cho nên chưa thể chứng đắc mà thôi”. (奇哉!奇哉! 大地众生皆有如来智慧德相, 但以妄想挚著不能证得).

Kinh Niết Bàn:

“Hết thảy chúng sinh đều có Phật tính. Những ai có Phật tính đều có thể thành Phật”. (一切众生皆有佛性, 有佛性者皆可成佛).

Kinh Phạm võng:

“Ta là người đã thành Phật, còn các ngươi là người chưa thành Phật đó thôi”. (我是已成佛, 汝是未成佛).

Qua từng ấy kinh Phật nói trên cũng có thể thấy rằng, trên thế gian này hiếm có học thuyết hay tôn giáo nào lại quan tâm, lại thiết tha với vấn đề bình đẳng xã hội như Phật giáo. Chẳng phải "bình đẳng" và "tự do" là khát vọng lớn nhất của nhân loại từ trước đến nay và từ nay về sau đó sao? Chẳng có đạo đức chân chính nào lại có thể phát triển bền vững trong một xã hội không có bình đẳngtự do. Quan niệm bình đẳng thường được nhắc đến nhiều ở các Thiền sư thời Lý-Trần. Không có quan niệm bình đẳng thì làm sao có được "trên dưới một lòng", không có quan niệm bình đẳng thì cũng sẽ không có Bến Bình Than, Hội nghị Diên Hồng, không có quan niệm bình đẳng thì cũng sẽ không có hai chữ "sát Thát" trên cánh tay của hết thảy chiến binh đời Trần, không có quan niệm bình đẳng thì cũng không có Yết Kiêu, Dã Tượng, không có quan niệm bình đẳng thì không thể ba lần đánh tan quân Nguyên, đội quân thiện chiến đã từng chinh phục Trung Quốc, nhưng không thể nào chinh phục nổi Việt Nam.

Bản thể luận hay triết học Phật giáo là cơ sở cho đạo đức luận tồn tại và phát triển bền vững. Học giả Trung Quốc thừa nhận triết học Phật giáo cao hơn triết học Trung Quốc một bậc, cho nên Phật giáo Trung Quốc chú trọng nghiên cứu về triết học hơn là về thực hành tôn giáo. Có lẽ vì vậy nên Tống Nho đã triết học hóa Nho giáo để củng cố cho đạo đức luận của họ. "Lý-khí" chính là cơ sở bản thể luận của đạo đức luận lễ nghĩa. Tuy nhiên, đạo đức Nho giáo đến Tống Nho lại có khuynh hướng đạo đức - chính trị, khác với Nho giáo nguyên thủy thiên về chính trị - đạo đức. Tống Nho xem đạo đức chỉ là phương tiện, còn chính trị mới là mục đích. Đạo đức hòa tan vào chính trị và hướng về mục đích củng cố chế độ đẳng cấp phong kiến. Trong khi đó đạo đức luận đầy tính nhân bản của Phật giáo rộng hơn đạo đức luận của Tống Nho cả về không gian lẫn thời gian.

Đạo đức luận nhân bản của Phật giáo dựa vào bản thể luận, dựa vào quan điểm triết học, bao gồm pháp môn "bất nhị" đã tồn tại trên ngàn năm lịch sử. Tuy nhiên, giá trị của nó vẫn không hề suy giảm, nhất là khi mà "ngã mạn" và "ngã chấp" đang trở thành thuộc tính cố chấp của con ngườithời đại ngày nay.

 

(1) Chữ Hán trích ở trên là dựa theo bản dịch Hán ngữ của Kumarajiva. Xin tham khảo bản dịch Anh ngữ của Robert A.F. Thurman: Then the crown prince Manjusri said to the Licchavi Vimalakirti: “We have all given our own teachings, noble sir. Now, may you elucidate the teaching of the entrance into the principle of nonduality!”.
Thereupon, the Licchavi Vimalakirti kept his silence, saying nothing at all. The crown prince Manjusri applauded the Licchavi Vimalakirti: “Excellent! Excellent, noble sir! This is indeed the entrance into the nonduality of the Bodhisattvas. Here there is no use for syllables, sounds, and ideas.” (Vimalakirti Sutra, The Dharma Door of Nonduality).

(2) Đại Trí Độ Luận, q.12 đề cập đến “hữu”, “vô”, cho rằng có 3 loại nhận thức về “hữu” (tồn tại) đó là: 1. Tồn tại trong tương quan (tương đại hữu); 2. Tồn tại nhờ tên gọi (giả danh hữu); 3. Mỗi sự vật đều tồn tại (Pháp hữu).

(3) Đạo Đức Kinh, Từ Thụ, Lưu Hạo chú dịch, An Huy nhân dân XBX, 1993.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10743)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10409)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11077)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11880)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13048)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13529)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33524)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11254)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11527)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17773)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11322)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11752)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11408)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18875)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12464)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11218)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13061)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15628)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11733)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11612)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12635)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12549)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13864)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12890)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12836)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13203)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12655)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12614)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12236)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12256)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11879)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11909)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16736)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12575)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14949)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12767)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11808)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16422)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13148)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11734)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19739)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10317)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10886)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9953)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11660)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant