Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Năng Sở Song Vong: Thể Nhập Chốn Tịch Tĩnh Y Nhiên

24 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 36529)
Năng Sở Song Vong: Thể Nhập Chốn Tịch Tĩnh Y Nhiên


Trước hết chúng ta tìm hiểu xem thế nào là năng sở song vong mà Phật Giáo Ðại Thừa đã đưa đến thuyết luận khi muốn đạt đến chí đạo hay chân tâm, một thực tướng của vạn hữu thì phải dùng cách nhị bội phủ định nầy. Một điều quan trọng trong vấn đề là phải thâm cứu, triển khai pháp tu chứng chánh đẳng chánh giác của đức Phật từ nguyên thủy mà thôi. Một sự suy luận, văn từ mở rộng theo thời đại, phân tích hợp lý đệ nhất nghĩa các pháp ứng dụng, phổ biến là sự cụ thể hóa mọi cách tư duy theo trình độ để thể nhập thực tại tuyệt đối. Một phương pháp thiết thực nhất là phải dựa vào phần kết cấu của tâm thức theo tâm lý học hình thức mà phân định mới có cái nhìn vừa thực tế chính xác vừa logic hơn trong sự tương hợp với pháp Phật. Tóm lược sự hình thành tâm thức (giác thức) và tâm trí (giác trí) như sau:

* Khi nhận diện hình ảnh đối tượng (cảm giác: sensation) rồi nhận thức cảm giác ấy với tên gọi (perceive its name) mới có tâm thức (consciousness or perception) hay giác thức.

* Tri nhận (cognize) giác thức mới có giác trí hay tri thức hay tâm trí (cognition).

* Giác trí tuệ (discernment) hay tri thức nguyên thủy (pure cognition) là khi giác trí không có thời không, là cái biết sat-na hiện tiền, tức là tuệ giác hay tánh giác phải dùng tuệ tri, tuệ quán, biết vô trụ, hay liểu tri đối tượng mới đạt được. Biết nầy là cái biết của trí nó bao trùm cả năm căn (do ý trí tác năng) vô giới hạn, còn cái biết của từng căn (do ý trí tác động) giới hạn ở mỗi căn như tai chỉ nghe biết mà tai không thấy biết. Do đó Giác Trí Tuệ là cái Biết Sát-Na hiện tiền là cái Ðịnh của trí vậy.

Do hình thành giác trí, tri kiến tư tưởng, tưởng tri, quán tưởng (không dùng chánh niệm), suy nghĩ là cái bị sanh vì thế, thiền của yoga chỉ ở giai tầng sanh khởi do tưởng tri hay sở tri, còn quán niệm thường, không có định trí được, chỉ là định của thức (si định) mà thôi, như sau nầy Phật dạy trong kinh Pháp Môn Căn Bản 01, (kinh Trung Bộ) trí của phàm phu:

Phàm Phu

Tưởng tri là sự suy nghĩ, tưởng nhớ, tưởng tượng, ký ức, thuộc loại Mạc- Na- thức hay trong A-Lại-Da-thức, là những hình ảnh được khôi phục lại, có cái trung thực, có cái sai lạc và ngay cả có cái tương tự lẫn lộn với hình ảnh đối tượng cũ, nhưng không phải đối tượng cũ. Đã là những hình ảnh cũ khôi phục lại là những ảo ảnh của những đối tượng khiếm diện (kể như không có đối tượng). Do đó tưởng tri là biết do tưởng thức hoặc suy nghĩ lại những ý tưởng so đo của tự ngã, tưởng tượng những đối tượng không thật có do tiền ngũ căn trực tiếp nhận thức, nên sự nhận thức chấp trước, lệch lạc và không chơn thật của tri kiến phàm phu, chúng sanh thường tình mà thôi. Như Phật thuyết giảng:

-- Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đạiđịa đại. Vì tưởng tri địa đạiđịa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại…

I. Năng Tri và Sở Tri trên bình diện Tâm Thức

Thật vậy lục căn tiếp xúc với lục trần sanh ra lục thức hay tâm thức. Năng tri của lục căn tức là cái biết của lục căn là ý trí tác động tự nhiên của căn (cái biết) khi gặp đối tượng hay trần cảnh (sở tri: cái bị biết) mới có giác thức. hay còn gọi là tâm thức. Một điều cần lưu ý là khi năng tri tiếp xúc với sở tri theo thời gian làm cho sanh ra quan niệm tư tưởng (giác thức và giác trí liên hợp) vì đó là pham vi của thức sanh khởi, nên Phật cho đó là cái bị sanh (còn sanh diệt).

Lúc Phật chưa giác ngộ, Bồ Tát hành đạo với các thầy Bà La Môn như khổ hạnh, nhịn ăn, thiền nín thở tuy là những pháp diệt dục và loại trừ các pháp bất thiện rất tốt, cốt dùng cách hành hạ xác thân mong chế ngự được tâm, nhưng thật sự khi sức khỏe kiệt quệ, bụng đói, tinh thần tán loạn thì không an tịnh thì làm gì có trí sáng suốt để đi đến giác ngộ giải thoát. Sự giải thoát là sự hiểu biết mà đàng này họ chỉ dạy chế ngự thân và hành động của thân như ngũ dục và những ác pháp để mong tìm đến giải thoát, ngay các loại thiền yoga cũng còn trong thế giới hiện tượng (bị sanh) mà thôi. Riêng hành các pháp khổ hạnh nhịn ăn và thiền nín thở thì rõ ràng không thể đem lại trí định được; có thể các loại thiền cao cấp của yoga, như thiền vô hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng làm cho tư tưởng phong phú hơn, nhưng không đem đến giác ngộ. Tại sao? Vì còn dùng tưởng tri là vẫn còn bị sanh.

II. Năng Sở Song Vong trên bình diện Tâm Thức. (Tương Ðối)

Bồ Tát nhận rõ rằng con người với dòng tâm trí mê muội mãi chìm đắm trong cuộc sống xa hoa dục lạc, và cứ lăn trôi trong ngũ dục thì làm sao tránh khỏi thế giới sanh già bịnh chết, khổ, ô nhiễm. Sự vật trong thế giới hiện tượng là cái bị sanh, thì phải tìm đến cái Như đã biết, Giác Thức là cái Bị Sanh, nên Phật dạy phải tìm cái Vô Sanh. Từ cái Sanh vô thường tìm cầu cái vô sanh hay bản chất của thế giới này, cái luôn thường tồn bất biến. Khi con người đạt đến thế giới vô sanh thì không còn bị sanh nữa, tức là thoát khỏi cảnh sanh già bịnh chết, ưu khổ. Cũng là lúc Ngài phải từ bỏ tu lối thiền yoga để thực hành phương pháp do Ngài tự khám phá. Tâm trí mê muội của con người trong thế giới hiện tượng biến dị trong dòng bộc lưu sanh tử phải được vượt thoát ra khỏi nó để đến thế giới vô sanh, thường tồn, giải thoát khỏi nhân duyên sanh diệt, tức là tìm về chân trísoi sáng vạn pháp để làm chủ cái bị sanh trong thế gian. Chúng ta cần tìm hiểu sự hình thành của chân trí (cái Vô Sanh) như thế nào mới có thể mở ra con đường trí tuệ giải thoát. Như Phật đã thuật lại sự tìm cái Vô sanh và đã chứng được cái vô sanh trong kinh Thánh Cầu-26 (kinh Trung Bộ)

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách….

Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ, hoàn toàn diệt trừ các ái, sự ly tham sân si, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

blank

* Ðấng Như Lai - I

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đạiđịa đại. Vì thắng tri địa đạiđịa đại, Ngài không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri địa đại.

Cái Bị Sanh là Giác Thức và Giác Trí có thời gian (Thức và Trí liên hợp nhau sanh ra tư tưởng và theo thời gian huyễn hóa). Như thế cái Vô Sanh là cái Biết Sát Na hiện tiền hay là cái Tuệ Giác. Vậy khi năng sở muốn được song vong hay là tâm thức biến mất thì phải phủ định chúng bằng tri thức nguyên thủy, là tri nhận tâm thứcthời gian, tức là đã thành giác trí tuệ thí lúc đó tâm thức đã biến mất rối. Tuệ giác phủ định mọi thực tại giả lập, giả danh, tùy thuộc hay duyên khởi.

Thí dụ, khi ta thấy con bò, ta biết thấy con bò, khi biết thì đã phủ định thấy con bò, nghĩa là biết sát na hiện tiền cái thấy thì không có quan niệm gì con bò cả, thì không hệ lụy đến ái thủ hữu, không có nhân duyên chằng chịt. Không có thời gian thì không sanh diệt, nên cái bị sanh không đeo đuổi ta, là ta đã nắm bắt cái vô sanh rồi.

Trong pháp tu chứng chánh đẳng chánh giác của đức Phật, Ngài đã dùng Ðịnh Niệm Hơi Thở để đạt sự giác ngộ giải thoát như trong phẩm Tương Ưng Hơi ThởHơi Thở Ra-54 (kinh Tương Ưng Bộ):

…..14) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng các niệm, các tư duy của ta được đoạn tận", thời định niệm hơi thở vô, hơi thở ra này phải được khéo tác ý.

Ðịnh niệm là biết và chánh niệm, tức Biết + Chơn Tướng, Biết + Chơn Thức và Biết + Chơn Trí.

Thí dụ trong kinh Tương Ưng Bộ Phật dùng hơi thở để định niệm.

Biết tôi thở vô bằng lời (tướng), tức biết đọc tôi thở vô và thở ra cũng đọc như vậy.

Biết tôi thở vô bằng thức, tức biết ý thức tôi thở vô (thầm hội) và thở ra cũng vậy.

Biết tôi thở vô bằng trí, tức biết tôi biết tôi thở vô và thở ra cũng vậy. Biết trước là định, biết sau là dùng trí để niệm hơi thở.

Khi chứng Thiền thứ nhứt, lời nói được khinh an;

Khi chứng Thiền thứ hai, tầm tứ được khinh an;

Khi chứng Thiền thứ ba, hỷ được khinh an;

(Kinh Sống Một Mình - Rahogata Sutta)

(SN 36.11)

Ba trong bốn pháp Thiền đầu tiên đều dùng định niệm hơi thở nghĩa là Biết (Tuệ Tri) và Chánh niệm như hơi thở, ly duc, ly pháp bất thiện, tịnh chỉ tầm tứ, hỷ lạc sanh, ly hỷ trú xả theo thứ tự các thời thiền từ định niệm tướng đối tượng (ngôn hành); định niệm Thức đối tượng (ý hành hay tĩnh thức); định niệm Tánh (trí) đối tượng (trí hành, tĩnh giác).

Một nhận định chính xác là khi Ðịnh (Tuệ Tri) thì nó đã xóa hết năng tri (Trí của căn) sở tri (Thức) rồi. Tuy vậy cũng còn dính dấp đến Trí (Tâm), nên năng sở song vong vẫn ở trên bình diện tâm thức. (tương đối)

III . Năng Sở Song vong trên bình diện Tâm Trí (Tuyệt Ðối)

Trên tiến trình đi đến năng sở song vong vượt khỏi tâm trí là một nỗ lực nắm bắt thực tướng của vạn hữu bằng sự miên mật thể nhập đối tượng một cách tuyệt đối không còn dùng trí. Thật ra, thực hiện định niệm đối tượng bằng thân hành, trong tứ oai nghi, đi đứng nằm ngồi, mọi cử động, mọi hoat động đều phải chánh niệm như trong Phẩm Thân Hành Niệm-119 (Kinh Trung Bộ), chỉ trích phần thân hành niệm ở đoạn ngồi thiền:

….. Và này các Tỷ-kheo, thân hành niệm tu tập như thế nào, làm cho sung mãn như thế nào, có quả lớn, có công đức lớn?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết-già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô. Chánh niệm, vị ấy thở ra. Hay thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài vị ấy biết: "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra". An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập thân hành niệm

Bồ Tát phải sống một mình lúc đó thân tâm mới được yên tịnhtu hành, như trong phẩm Sống Một Mình-36.11 (kinh Tương Ưng Bộ):

…..5) Nhưng này Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng sự đoạn diệt các hành là tuần tự: khi chứng được Thiền thứ nhứt, lời nói được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ hai, tầm tứ được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ ba, hỷ được đoạn diệt; khi chứng Thiền thứ tư, hơi thở vô, hơi thở ra được đoạn diệt; ..

Thể Nhập Cảm giác Vô Ra (Thân Hành: Vô Niệm: không niệm tướng niệm thức cả niệm trí): Pháp bổn như vô pháp: Như là không thở: Thể Nhập chốn tịch tĩnh như nhiên, biết cảm nhận luồng hơi thầm lặng Vô Ra. Chỉ dùng cảm giác của đối tượng mà thể nhập, không dùng trí. Tâm khôngtrạng thái không còn dính dấp gì đến tri thức. Tức là giác thức hay giác trí ngay cả tri giác nguyên thủy đi nữa, cũng phải dùng trí tuệ, thì tâm trí sẽ hao mòn, dòng trí tuệ không còn 100%. Cho nên chỉ sử dụng cảm giác, lúc đó trần cảnh hay vạn hữutrạng thái y nhiên; nó-là-nó không bị dòng tâm trí biến đổi. Có tâm trí xen vào dù gì đi nữa cũng dễ bị ái thủ hữu lôi kéo hơn.

“Cảm giác vô,

Cảm giác ra.” (Chỉ cảm nhận luồng hơi vô ra, chưa nhận thức tên “hơi thở”)”

Cảm giác Vô Ra, vì khi nhận dạng cảm giác (bóng dáng) của một đối tượng mà chưa được nhận thức (chưa được đặt tên hay đọc tên) tên đối tượng là chỉ thể nhập nơi tịch tĩnh y nhiên, tức là cảm giác chỗ đối tượng chưa thành hình, chưa có tên (giả danh), đó cũng gọi là tri thức nguyên thủy hay tuệ giác của chân trí. Cảm nhận luồng hơi vô luồng hơi ra mà thôi. Khi chưa có tên đối tượng thì làm gì có hỷ lạc trong tâm.

Khi xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, vị ấy chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

 

23) Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ước muốn rằng: "Mong rằng đoạn lạc, đoạn khổ, chấm dứt hỷ ưu đã cảm thọ trước, tôi chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh", thời định niệm...

 

Tóm lại năng sở song vong một cách tuyệt đối không dùng trí mà dùng thân cảm nhận (cảm giác) đối tượng mà thôi. Ðó là Chánh Giác (Vô niệm: buông xả}.

Buông xả và ngưng động: Từng hơi thở tự nhiên tự động hiện hữu rõ ràng: nó-là-nó tại-đó và lúc đó mà thôi, một trạng thái trống rỗng. Vô Niệm

Trạng thái thân chứng nhờ thể nhập chốn tịch tĩnh như nhiên, tức là phải trải qua ba giai đoạn trên (huân tập kinh nghiệm thuần thục), để hành giai đoạn thứ tư nầy một cách rốt ráo, nghĩa là vô tướng vô thứcvô trí (hay vô tánh) tức là vô niệm, từng chập hơi thở tự nhiên và tự động vào, ra, hiện hữu rõ ràng rỗng không). Khi Phật đã trải qua ba lối thở trên (kinh nghiệm) là đã đạt được chánh trí rồi như các kinh Phật đã giáo hóa chúng sanh sau này. Ðó là lúc Bồ Tát đã đoạn diệt cảm thọ vui buồn, vượt khỏi ái thủ hữu được minh tâmgiải thoát. Giai đoạn thứ tư này là Pháp mà Phật đã thể hiện được Tánh Giác còn gọi là Pháp Vô Niệm, Buông Xả là không Niệm Tướng , không Niệm Thức và cả không dùng Trí mà ngộ nhập vào từng dòng hơi vô ra tự động hiện hữu tự nhiên rõ ràng trong trống không. Ðó là Thiền Thứ Tư.

Khi chứng Thiền thứ tư, hơi thở vô, hơi thở ra được khinh an

(Kinh Sống Một Mình - Rahogata Sutta)

(SN 36.11)

Nhận Ðịnh

Năng sở song vong là hành trình đoạn diệt tướng, đoạn diệt thức,và đoạn diệt trí mà chỉ thể nhập vào cảm giác đối tượng hơi thở. Thật sự cảm giác do thân thể con người cảm nhận vào thể không của đối tượng. Thí du nhãn căn chẳng hạn, thấy con bò đầu tiên là cảm nhận hình ảnh (cảm giác) trong võng mạc (thể không) của mắt, rồi mới nhận thức tên hình ảnh đó là con bò (thức). Vậy trước khi con bò được sanh ra (đặt tên) chỉ là cảm giác mà thôi. Muốn đoạn diệt cái biết (của căn lẫn của trí), thì lúc đầu thân phải nắm bắt ngay cảm giácthời gian (vô trụ) mới đạt thực tướng đối tượng. Thực tướng đối tượng là tướng không của nó chiếm cứ trong không gian một dung thể không. Như con bò, tướng không tự nhiên của nó là dung thể không chiếm trong không gian, khi ta nhìn nó, thì tướng không ấy chiếu trong võng mạc mắt ta mới thấy, rồi nhờ nhận thức (perceive) tướng không ấy có tên là con bò. Do đó ta thấy con bò là ta chỉ thấy hình ảnh nó mà thôi, nên con bò chỉ là giả danh, không phải là con bò bằng xương bằng thịt trong mắt ta. Vậy lý do tại sao ngay khi ngay khi thân cảm nhận đối tượng đầu tiên ta không nắm bắt cảm giác, một thực tướng của đối tượng, thì làm gì ta phải duyên theo cái giả danh huyễn hóa của vạn hữu? Cho nên trong pháp tu chứng chánh đẳng chánh giác của đức Phật chỉ rõ lúc thân hành và sống một mình, thì định niệm hơi thở trong giai đoạn thứ tư (tứ thiền) thì bắt đầu hơi thở ra vô được đoạn diệt, nghĩa là đoạn diệt hơi thở, hơi thở, một đối tượng giả danh, huyễn hoá, không thật vì do duyên khởicăn trần thức, nên còn biến dị, phải nắm bắt ngay đối tượng tư nhiên của nó hiện hữu trong không gian ngay khi thân cảm nhận nó (tướng khôngthực tướng mà thân cảm giác). Nói tóm lại, năng sở song vong là thể nhập chốn tịch tĩnh y nhiên là trong sạch hóa tâm trí,là hư không hóa mọi hữu tồn để đạt chí đạo là tâm chơn như hay tâm không.

Tham Khảo

Kinh Tăng Chi Bộ (Phẩm 20, X(I)(93)).

KinhTrung Bộ (01, 26, 36, 43, 106, 118, 119).

Kinh Tương Ưng Bộ (36.11, 54)

Tất cả kinh trên do HT.Thích Minh Châu Việt dịch thuộc kinh Pali, trích trong website Quảng Ðức:

http://www.quangduc.com Hoặc :

Pháp Tu Chứng Chánh Ðẳng Giác của đức Phật, 2008. Phổ Nguyệt trích trong websites Quảng Ðức, Tạng Thư Phật Học…; http://www.tangthuphathoc.net/tacgia/phonguyet
Phổ Nguyệt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12498)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14094)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10842)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11168)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11978)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13104)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11321)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12890)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13032)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11600)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17864)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11408)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11466)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18955)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12523)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13125)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11795)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11681)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12735)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12620)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13931)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12956)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12911)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13271)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12738)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12663)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11716)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11709)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12316)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12372)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11949)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11981)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16868)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15051)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16095)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12860)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12209)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13136)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13221)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12474)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11800)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19825)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11136)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11243)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10393)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11076)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10953)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10024)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11733)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant