QUYỂN BA MƯƠI
HAI
PHẨM
BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG
Phẩm
thứ mười một – Phần sáu
Thiện
nam tử! Nếu ai không thể quán xét như vậy thì gọi là không
tu thân.
“Thiện
nam tử! Không tu giới là những ai không thể quán xét rằng:
‘Giới là nấc thang đi lên của tất cả pháp lành. Giới
cũng là căn bản của tất cả các pháp lành, cũng như đất
là nguồn gốc sanh ra tất cả cây cối. Giới là pháp đứng
đầu dẫn dắt các căn lành, như vị thương chủ dẫn dắt
đoàn người đi buôn. Giới là ngọn cờ chiến thắng của
tất cả pháp lành, cũng như ngọn cờ chiến thắng của vị
Đế-thích [vua] cõi trời dựng lên. Giới có thể dứt trừ
mãi mãi tất cả các nghiệp ác và ba đường ác; có thể
trị lành các bệnh dữ, giống như loại cây thuốc. Giới
là lương thực để dùng trên con đường sanh tử hiểm trở.
Giới là áo giáp và binh khí để phá trừ bọn giặc ác phiền
não. Giới là thần chú linh nghiệm để diệt trừ rắn độc
phiền não. Giới là cây cầu bắc ngang để đi qua các nghiệp
ác.
“Những
ai không thể quán xét như vậy gọi là không tu giới.
“Người
không tu tâm là không thể quán xét rằng tâm luôn xao động
nhanh nhẹ, khó nắm giữ, khó điều phục, chạy đuổi buông
lung như con voi lớn dữ tợn; niệm niệm nối nhau nhanh chóng
như tia chớp điện; xao động không yên như loài khỉ vượn,
như huyễn hóa, như khí nóng; chính là nguồn gốc của tất
cả mọi điều ác; năm món dục khó làm cho thỏa mãn, chỉ
như lửa gặp củi, như biển cả nuốt hết các dòng sông,
như núi Mạn-đà [ôm trọn] cây cỏ sum suê.
“[Người
không tu tâm] không thể quán xét rằng sanh tử là hư vọng,
say đắm mê lầm đến nỗi tai hại, như con cá nuốt lưỡi
câu; [tâm] thường đi trước dẫn dắt các nghiệp theo sau,
như con sò mẹ dẫn dắt bầy con;[188] [vọng tâm này] tham muốn
vướng mắc năm món dục, chẳng ưa thích Niết-bàn, như con
lạc đà ăn mật cho đến chết cũng không ngoái nhìn tới
cỏ rơm; [vọng tâm này] đắm sâu trong sự vui sướng hiện
tiền, không quán xét sự nguy hại về sau, như con trâu tham
ăn lúa mạ chẳng sợ cái đau gậy đánh; [vọng tâm này] chạy
đuổi lăng xăng khắp trong hai mươi lăm cảnh giới hiện hữu,
như gió mạnh thổi tung những cánh hoa nhẹ; đối với những
việc không nên mong cầu [thì vọng tâm này] lại mong cầu
không chán, như kẻ ngu si mong được thứ lửa không nóng;
[vọng tâm này] thường ưa thích sanh tử, chẳng mong giải
thoát, như con sâu nhâm-bà ưa thích cây nhâm-bà;[189] [vọng
tâm này] mê lầm tham luyến vướng mắc chốn sanh tử xấu
xa nhơ nhớp, như kẻ tù nhân ưa thích con gái người cai ngục,
lại như con lợn trong chuồng ưa sống chỗ nhơ nhớp. Những
ai không thể quán xét như vậy gọi là không tu tâm.
“Người
không tu tuệ là không quán xét rằng trí tuệ có thế lực
mạnh mẽ như chim kim sí, có thể phá trừ nghiệp ác, phá
trừ vô minh tăm tối, như ánh sáng mặt trời đẩy lùi bóng
cây, như dòng nước cuốn phăng đi mọi vật. Trí tuệ như
ngọn lửa mạnh đốt cháy tà kiến. Trí tuệ là căn bản
của tất cả các pháp lành. Trí tuệ là hạt giống sanh ra
chư Phật, Bồ Tát. Những ai không quán xét như vậy gọi là
không tu tuệ.
“Thiện
nam tử! Xét theo chân lý rốt ráo, nếu ai thấy rằng có thân,
có tướng của thân, nhân của thân, quả của thân, thân tích
tụ, một thân, hai thân... thân này, thân kia, thân diệt mất,
thân bình đẳng, thân tu, người tu [thân]. Những ai có chỗ
thấy như vậy gọi là không tu thân.
“Thiện
nam tử! Nếu ai thấy rằng có giới, có tướng của giới,
nhân của giới, quả của giới, giới cao thượng, giới thấp
hèn, giới tích tụ, một giới, hai giới... giới này, giới
kia, giới diệt mất, giới bình đẳng, giới tu, người tu
[giới], Giới Ba-la-mật. Những ai có chỗ thấy như vậy gọi
là không tu giới.
“Nếu
thấy rằng có tâm, có tướng của tâm, nhân của tâm, quả
của tâm, tâm tích tụ, tâm và tâm sở, một tâm, hai tâm...
tâm này, tâm kia, tâm diệt mất, tâm bình đẳng, tâm tu, người
tu [tâm], [thấy có] các tâm cao cả, trung bình, thấp kém, tâm
thiện, tâm ác. Những ai có chỗ thấy như vậy gọi là không
tu tâm.
“Thiện
nam tử! Nếu ai thấy rằng có trí tuệ, có tướng trí tuệ,
nhân của tuệ, quả của tuệ, tuệ tích tụ, một tuệ, hai
tuệ... tuệ này, tuệ kia, tuệ diệt mất, tuệ bình đẳng,
tuệ cao trổi, tuệ trung bình, tuệ thấp kém, tuệ chậm lụt,
tuệ lanh lợi, tuệ tu, người tu [tuệ]. Những ai có chỗ thấy
như vậy gọi là không tu tuệ.
“Thiện
nam tử! Những ai không tu tập thân, giới, tâm, tuệ như vậy
thì với nghiệp ác nhỏ cũng phải chịu quả báo xấu ác
lớn lao. [Những người ấy] vì sợ sệt nên thường nghĩ
rằng: ‘Ta [vốn] thuộc về địa ngục, [chỉ] làm những
việc [khiến vào] địa ngục.’
“[Những
người ấy] tuy nghe người có trí nói về sự khổ ở địa
ngục nhưng lại thường tự nghĩ rằng: ‘Như sắt đập sắt,
đá lại đập đá, cây tự đập vào cây, loài sâu lửa ưa
thích ở trong lửa; thân địa ngục là tương tợ với địa
ngục. Nếu tương tợ với địa ngục thì [vào địa ngục]
có gì là khổ?’
“Ví
như con nhặng xanh đeo dính vào bãi đàm, không tự thoát ra
được; những người ấy cũng thế, tuy ở trong tội nhỏ
cũng không thể tự thoát ra được, trong lòng không một chút
ăn năn hối tiếc, không biết tu thiện, thường che giấu lỗi
lầm. Tuy thuở quá khứ đã từng có đủ mọi nghiệp lành
nhưng bị tội [nhỏ ngày nay] làm cho nhơ xấu.
“Những
người không tu tập thân, giới, tâm, tuệ, tuy có quả báo
nhẹ trong đời hiện tại nhưng lại chuyển thành quả báo
xấu ác rất nặng phải đọa vào nơi địa ngục!
“Thiện
nam tử! Ví như bình nước nhỏ cho vào một thăng[190] muối,
nước liền trở nên quá mặn không thể uống được. Nghiệp
tội của những người không tu tập thân, giới, tâm, tuệ
cũng giống như vậy.
“Thiện
nam tử! Ví như người [quá nghèo] thiếu nợ kẻ khác chỉ
một đồng tiền nhưng không trả nổi, vì vậy phải chịu
giam cầm, đủ mọi sự khổ. Nghiệp tội của những người
không tu tập thân, giới, tâm, tuệ cũng giống như vậy.”
Bồ
Tát Sư Tử Hống bạch Phật: “Thế Tôn! Vì nhân duyên gì
mà những người ấy lại khiến cho quả báo nhẹ trong đời
hiện tại chuyển thành quả báo [nặng nề] phải lãnh chịu
trong địa ngục?”
Phật
dạy: “Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh, nếu vướng đủ
vào năm việc sẽ khiến quả báo nhẹ trong đời hiện tại
chuyển thành quả báo [nặng nề] phải lãnh chịu trong địa
ngục. Những gì là năm? Một là vì ngu si, hai là vì căn lành
ít ỏi, ba là vì nghiệp ác sâu nặng, bốn là vì không biết
sám hối, năm là vì không tu tập nghiệp lành căn bản.
“Lại
có năm [nguyên nhân khác]. Một là vì quen học và làm theo
nghiệp ác, hai là vì không hộ trì năm giới căn bản,[191]
ba là vì xa lìa các căn lành, bốn là vì không tu tập thân,
giới, tâm, tuệ, năm là vì gần gũi những kẻ xấu ác.
“Thiện
nam tử! Vì [những nhân duyên như trên] nên [chúng sanh] có
thể làm cho quả báo nhẹ trong hiện tại chuyển thành tội
nặng phải lãnh chịu trong địa ngục.”
Bồ
Tát Sư Tử Hống lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Những ai
có thể làm cho tội báo [nặng nề trong] địa ngục có thể
trở thành quả báo nhẹ nhận chịu ngay trong đời này?”
Phật
dạy: “Thiện nam tử! Những ai tu tập thân, giới, tâm, tuệ
như vừa nói trên, thường quán xét các pháp đồng như hư
không, không [phân biệt] thấy có trí tuệ cùng người có
trí, chẳng thấy có sự ngu si cùng kẻ ngu si, chẳng thấy
có sự tu tập cùng người tu tập. Đó gọi là bậc trí, có
thể tu tập thân, giới, tâm, tuệ. Người như vậy có thể
làm cho tội báo [nặng nề phải vào] địa ngục trở thành
quả báo nhẹ nhận chịu ngay trong hiện tại.
“Người
như vậy, ví như có tạo ra nghiệp ác hết sức nặng nề
cũng tự suy niệm quán xét [thấy là] có thể khiến cho [nghiệp
ác ấy] trở thành rất nhỏ nhặt. [Người ấy] suy nghĩ rằng:
‘Nghiệp [ác] của ta tuy nặng nhưng vẫn không bằng nghiệp
[lành].’ Ví như bông vải dù nhiều đến trăm cân [giá trị]
cũng không bằng một lượng vàng ròng. Như cho vào nước sông
Hằng một thăng muối thì nước sông không hề có vị mặn,
người uống không thể nhận biết được. Như người giàu
có lớn, tuy có nợ nần kẻ khác rất nhiều, đến ngàn muôn
thứ vật báu, nhưng [vẫn đủ sức trả, nên] không thể bị
giam cầm hay phải chịu khổ. Như con voi tơ to lớn đủ sức
bứt đứt dây xích sắt mà ra đi tự do.
“Người
có trí tuệ cũng giống như vậy, thường suy xét rằng: ‘Nghiệp
lành của ta tăng thêm nhiều mạnh thì nghiệp ác phải suy
tổn, yếu ớt. Ta có thể bộc lộ và sám hối để trừ đi
nghiệp ác, có thể tu tập trí tuệ. [Nếu] trí tuệ tăng thêm
nhiều mạnh thì vô minh tăm tối phải suy yếu đi.’
“Suy
nghĩ như vậy rồi liền gần gũi những bạn lành, tu tập
Chánh kiến, thọ trì, tụng đọc, sao chép, giảng nói Mười
hai bộ kinh; nếu thấy ai thọ trì, tụng đọc, sao chép, giảng
nói [Mười hai bộ kinh] liền sanh tâm cung kính, dùng đủ các
thứ y phục, thức ăn uống, chỗ ngủ nghỉ, nằm ngồi, thuốc
men, hương hoa mà cúng dường, ngợi khen xưng tán, tôn trọng.
Người ấy dù đi đến đâu cũng hết lời ngợi khen chỗ
hay tốt, hiền thiện của người khác, không chê bai chỗ xấu
dở, khiếm khuyết. Người ấy cúng dường Tam bảo, cung kính
tin theo kinh Phương đẳng Đại Niết-bàn, rằng Như Lai là
thường tồn, không hề biến đổi; rằng tất cả chúng sanh
đều có tánh Phật. Người như vậy có thể khiến cho tội
báo nặng [sẽ phải đọa] vào địa ngục trở thành quả
báo nhẹ, nhận chịu ngay trong đời này.
“Thiện
nam tử! Vì nghĩa ấy nên không phải tất cả các nghiệp đều
có quả báo nhất định, cũng không phải tất cả chúng sanh
đều nhất định phải nhận lãnh quả báo.”[192]
Bồ
Tát Sư Tử Hống lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất
cả các nghiệp đều không nhất định có quả, nếu tất
cả chúng sanh đều có tánh Phật, lẽ ra phải tu tập Tám
Thánh đạo. Vậy do duyên cớ gì mà tất cả chúng sanh đều
không đạt được Đại Niết-bàn?
“Bạch
Thế Tôn! Nếu như tất cả chúng sanh đều có tánh Phật,
nhất định rồi sẽ đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
vậy cần gì phải tu tập Tám Thánh đạo?
“Bạch
Thế Tôn! Như trong kinh này đã dạy, có những bệnh nhân dù
gặp thầy gặp thuốc, có người chăm sóc, tùy bệnh mà cho
ăn uống; hoặc không có được [những điều kiện ấy], rồi
cũng đều khỏi bệnh. Tất cả chúng sanh cũng giống như vậy;
dù có được gặp hàng Thanh văn, Phật Bích-chi, Bồ Tát, các
bậc thiện tri thức, được nghe thuyết pháp, tu tập Thánh
đạo; hoặc không được gặp, không được nghe, không tu tập
đạo, rồi cũng đều sẽ được thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề. Vì sao vậy? Vì [họ đều] có tánh Phật.
“Bạch
Thế Tôn! Ví như không ai có thể ngăn chặn mặt trời, mặt
trăng không cho đi về phía núi Át-đa; cũng không ai có thể
ngăn chặn bốn con sông cái không cho chảy vào biển cả; cũng
không ai có thể ngăn chặn hạng nhất-xiển-đề khiến họ
không vào địa ngục. Tất cả chúng sanh cũng giống như vậy,
không ai có thể ngăn chặn khiến họ không đạt được A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì sao vậy? Vì [họ đều] có tánh Phật.
“Bạch
Thế Tôn! Vì nghĩa ấy, tất cả chúng sanh không cần tu tập
đạo. Vì nhờ sức của tánh Phật mà có thể đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chứ không cần đến sức
tu tập Thánh đạo.
“Bạch
Thế Tôn! Nếu như hạng nhất-xiển-đề, những kẻ phạm
Bốn trọng cấm, phạm Năm tội nghịch đều không thể đạt
được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, thì mới nên tu tập.
Nhưng nhờ có tánh Phật nên chắc chắn rồi bọn họ đều
sẽ đạt được [A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề]; không
phải nhân nơi việc tu tập rồi sau mới đạt được.
“Bạch
Thế Tôn! Ví như đá nam châm, tuy ở xa [mạt] sắt, nhưng do
sức hút mà [mạt] sắt phải hướng theo nó. Tánh Phật của
chúng sanh cũng giống như vậy, nên không cần phải tu tập
[Thánh] đạo.”
Phật
dạy: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Như ven bờ sông
Hằng có bảy hạng người vì muốn tắm rửa, hoặc vì sợ
giặc cướp, hoặc vì hái hoa mà [nhảy] xuống nước [để
qua] sông.
“Hạng
người thứ nhất vừa nhảy xuống nước thì bị chìm hẳn.
Vì sao vậy? Vì yếu ớt không sức lực, không luyện tập
bơi lội.
“Hạng
người thứ nhì tuy bị chìm xuống nhưng rồi lại nổi lên;
nổi lên rồi lại chìm hẳn xuống. Vì sao vậy? Vì có sức
lực mạnh mẽ nên nổi lên được, nhưng không luyện tập
bơi lội nên nổi lên rồi lại chìm trở xuống.
“Hạng
người thứ ba chìm xuống rồi nổi lên; nổi lên rồi thì
không chìm xuống nữa. Vì sao vậy? Vì thân thể nặng nên
[vừa xuống liền bị] chìm, nhưng có sức lực mạnh mẽ nên
nổi lên được, và nhờ có luyện tập bơi lội nên nổi
lên rồi thì có thể ở lại trên mặt nước.
“Hạng
người thứ tư tuy bị chìm xuống nhưng rồi lại nổi lên;
nổi lên rồi thì ở yên trên mặt nước; rồi sau đó quay
nhìn khắp bốn hướng. Vì sao vậy? Vì thân thể nặng nên
chìm; vì có sức lực mạnh nên nổi trở lên; vì có luyện
tập bơi lội nên ở lại được trên mặt nước, nhưng vì
không biết mình nổi lên ở chỗ nào nên quay nhìn khắp bốn
hướng.
“Hạng
người thứ năm xuống nước liền chìm, chìm rồi lại nổi;
nổi lên rồi thì ở lại trên mặt nước; sau đó quay nhìn
các hướng rồi bơi đi. Vì sao vậy? Vì có lòng sợ sệt.
“Hạng
người thứ sáu rơi xuống nước rồi liền bơi đi, gặp chỗ
cạn liền dừng lại. Vì sao vậy? Để nhìn xem giặc cướp
ở gần hay ở xa.
“Hạng
người thứ bảy bơi được đến bờ bên kia rồi liền đi
lên núi cao, không còn lo sợ nữa, xa lìa khỏi bọn giặc thù,
[an ổn nên] hưởng được niềm vui sướng lớn.
“Thiện
nam tử! Dòng sông lớn sanh tử cũng giống như vậy. Ở đó
có bảy hạng người vì sợ bọn giặc cướp phiền não nên
khởi ý muốn vượt qua sông lớn sanh tử.
“[Có
những người] xuất gia, cạo tóc, mặc y phục người tu. Nhưng
xuất gia rồi lại gần gũi bạn xấu, làm theo lời dạy của
những kẻ ấy, nghe và thọ nhận những tà pháp như là: ‘Thân
của chúng sanh tức là năm ấm. Năm ấm tức là năm đại.
Nếu chúng sanh chết đi thì mãi mãi dứt bỏ năm đại. Vì
năm đại đã dứt, cần gì phải tu tập các nghiệp thiện
ác? Vì vậy nên phải biết rằng không có việc thiện, việc
ác cùng những quả báo thiện, ác.’ [Tin hiểu] như vậy gọi
là nhất-xiển-đề. Nhất-xiển-đề gọi là dứt mất căn
lành. Vì dứt mất căn lành nên chìm hẳn xuống dòng sông
sanh tử không thể nổi lên. Vì sao vậy? Vì nghiệp ác nặng
và không có sức mạnh của đức tin. Cũng giống như hạng
người thứ nhất ở ven sông Hằng [vừa nói ở trên].
“Thiện
nam tử! Hạng nhất-xiển-đề có sáu nhân duyên khiến cho
phải chìm sâu trong ba đường ác không thể ra khỏi. Những
gì là sáu? Một là vì tâm xấu ác quá mạnh; hai là vì không
thấy [có] đời sau; ba là vì ưa thích tích tập phiền não;
bốn là vì lìa xa các căn lành; năm là vì nghiệp ác ngăn
che cách trở; sáu là vì gần gũi những kẻ xấu ác.
“Lại
nữa, có năm việc khiến cho [chúng sanh] phải chìm sâu trong
ba đường ác. Những gì là năm? Một là vì ở bên cạnh vị
tỳ-kheo mà làm việc trái Chánh pháp; hai là vì ở bên cạnh
vị tỳ-kheo ni mà làm việc trái Chánh pháp; ba là vì tự do
sử dụng những đồ vật cúng dường [cho chư Tăng],[193] bốn
là vì ở bên cạnh mẹ mình mà làm việc trái Chánh pháp,
năm là vì đối với năm bộ Tăng[194] gây ra những chuyện
thị phi tranh cãi qua lại.
“Lại
nữa, có năm việc khiến cho [chúng sanh] phải chìm sâu trong
ba đường ác. Những gì là năm? Một là vì thường nói rằng
không có quả báo thiện ác. Hai là vì giết hại những chúng
sanh phát tâm Bồ-đề. Ba là vì vui thích nói ra những chuyện
lầm lỗi của người thuyết pháp. Bốn là vì đối với việc
đúng pháp mà nói là không đúng pháp, đối với việc không
đúng pháp lại nói là đúng pháp. Năm là vì cầu tìm những
pháp sai lầm để thọ nhận.
“Lại
nữa, có ba việc khiến cho [chúng sanh] phải chìm sâu trong
ba đường ác. Những gì là ba? Một là cho rằng Như Lai là
vô thường, diệt mất mãi mãi. Hai là cho rằng Chánh pháp
là vô thường, biến đổi. Ba là cho rằng Tăng-già thật có
thể hoại diệt. Vì ba điều đó nên thường chìm sâu trong
ba đường ác.
“Hạng
thứ nhì là những người khởi ý muốn vượt qua dòng sông
sanh tử, nhưng vì dứt mất căn lành nên phải chìm sâu không
sao thoát ra được. Nói thoát ra được là chỉ cho việc gần
gũi bạn lành, ắt sẽ có được lòng tin. Có lòng tin nghĩa
là tin ở việc bố thí và quả báo [tốt đẹp] của việc
bố thí, tin ở việc lành và quả báo [tốt đẹp] của việc
lành, tin ở việc ác và quả báo [đáng sợ] của việc ác,
tin rằng chốn sanh tử là khổ não, vô thường, bại hoại.
Đó gọi là lòng tin. Có lòng tin rồi, lại tu tập theo giới
hạnh thanh tịnh, thọ trì, đọc tụng, sao chép, giảng nói
[Mười hai bộ kinh], thường ưa thích làm việc bố thí, khéo
tu trí tuệ.
“[Những
người này tuy đã được như vậy,] nhưng vì căn trí ngu độn,
lại gặp những bạn xấu ác nên không thể tu tập thân, giới,
tâm, tuệ; nghe nhận theo các pháp tà; hoặc khi gặp thời xấu
ác, cõi nước xấu ác liền dứt mất các căn lành. Vì dứt
mất các căn lành nên thường phải chìm sâu trong chốn sanh
tử. Những người này cũng giống như hạng người thứ nhì
ở ven sông Hằng [vừa nói ở trên].
“Hạng
thứ ba là những người khởi ý muốn vượt qua dòng sông
sanh tử, nhưng vì dứt mất các căn lành nên vẫn phải chìm
đắm trong đó. Gần gũi với bạn lành nên được gọi là
thoát ra khỏi. Những người này tin rằng Như Lai là bậc có
trí rõ biết tất cả, thường hằng không biến đổi, vì
chúng sanh nên mới thuyết diễn những lẽ cao trổi nhất của
Chánh đạo; rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật; rằng
Như Lai không hề hoại mất, Pháp và Tăng cũng là như thế,
không hề hoại mất; rằng bọn nhất-xiển-đề nếu không
dứt bỏ pháp xấu ác tà kiến thì không bao giờ đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cần phải lìa xa những
pháp xấu ác ấy thì sau đó mới đạt được A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Những
người này sau khi khởi lòng tin rồi liền tu tập theo giới
hạnh thanh tịnh. Tu tập giới thanh tịnh rồi liền thọ trì,
đọc tụng, sao chép, giảng nói Mười hai bộ kinh, truyền
bá rộng ra khắp nơi cho các chúng sanh; họ lại ưa thích làm
việc bố thí, tu tập trí tuệ. Nhờ căn trí lanh lợi nên
họ [tuy chưa thoát khỏi sanh tử nhưng được] an trụ vững
vàng trong đức tin và trí tuệ, tâm không còn thối chuyển.
Những người này giống như hạng người thứ ba ở ven sông
Hằng, [nổi lên rồi có thể ở lại trên mặt nước].
“Hạng
thứ tư là những người khởi ý muốn vượt qua dòng sông
sanh tử, nhưng vì dứt mất các căn lành nên vẫn phải chìm
đắm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành nên có được lòng
tin, gọi là thoát ra khỏi. Những người này có được lòng
tin rồi liền thọ trì, đọc tụng, sao chép, giảng nói Mười
hai bộ kinh, truyền rộng ra khắp nơi cho chúng sanh; họ lại
ưa thích làm việc bố thí, tu tập trí tuệ. Nhờ căn trí
lanh lợi nên họ an trụ vững vàng trong đức tin và trí tuệ,
tâm không còn thối chuyển, [có thể] ngoái nhìn khắp bốn
phương. Bốn phương đó tức là bốn quả sa-môn: [Tu-đà-hoàn,
Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán]. Những người này cũng giống
như hạng người thứ tư ở ven sông Hằng [vừa nói ở trên].
“Hạng
thứ năm là những người khởi ý muốn vượt qua dòng sông
sanh tử, nhưng vì dứt mất các căn lành nên vẫn còn phải
chìm đắm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành nên thay đổi
có được lòng tin, gọi là thoát ra khỏi. Những người này
có được lòng tin rồi liền thọ trì, đọc tụng, sao chép,
giảng nói Mười hai bộ kinh, truyền rộng ra khắp nơi cho
chúng sanh; họ lại ưa thích làm việc bố thí, tu tập trí
tuệ. Nhờ căn trí lanh lợi nên họ an trụ vững vàng trong
lòng tin và trí tuệ, tâm không còn thối chuyển. Nhờ không
thối chuyển nên vượt lên phía trước. Vượt lên phía trước
là nói [quả] Phật Bích-chi. Tuy có thể tự cứu độ mình
nhưng không thể cứu độ hết chúng sanh, nên gọi là ‘bơi
đi’. Những người này cũng giống như hạng người thứ
năm ở ven sông Hằng [vừa nói ở trên].
“Hạng
thứ sáu là những người khởi ý muốn vượt qua dòng sông
sanh tử, nhưng vì dứt mất các căn lành nên vẫn còn phải
chìm đắm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành nên đạt được
lòng tin, gọi là thoát ra khỏi. Những người này có được
lòng tin rồi liền thọ trì, đọc tụng, sao chép, giảng nói
Mười hai bộ kinh, truyền rộng ra khắp nơi cho chúng sanh;
họ lại ưa thích làm việc bố thí, tu tập trí tuệ. Nhờ
căn trí lanh lợi nên họ an trụ vững vàng trong lòng tin và
trí tuệ, tâm không còn thối chuyển. Nhờ không thối chuyển
nên vượt lên phía trước rồi đi đến chỗ cạn. Đi đến
chỗ cạn rồi liền trụ yên không đi nữa. ‘Trụ yên không
đi nữa’ là nói hàng Bồ Tát, vì muốn độ thoát chúng sanh
nên trụ yên quán xét các phiền não. Những người này cũng
giống như hạng người thứ sáu ở ven sông Hằng [vừa nói
ở
trên].
“Hạng
thứ bảy là những người khởi ý muốn vượt qua dòng sông
sanh tử, nhưng vì dứt mất các căn lành nên vẫn còn phải
chìm đắm trong đó. Nhờ gần gũi bạn lành nên đạt được
lòng tin. Đạt được lòng tin rồi, gọi là thoát ra khỏi.
Vì có lòng tin nên liền thọ trì, đọc tụng, sao chép, giảng
nói Mười hai bộ kinh, truyền rộng ra khắp nơi cho các chúng
sanh; họ lại ưa thích làm việc bố thí, tu tập trí tuệ.
Nhờ căn trí lanh lợi nên họ an trụ vững vàng trong lòng
tin và trí tuệ, tâm không còn thối chuyển. Nhờ không thối
chuyển nên vượt lên phía trước. Vượt lên phía trước
rồi liền sang đến bờ bên kia, thẳng đường lên núi cao,
lìa khỏi mọi sự sợ sệt, hưởng được nhiều sự an vui.
“Thiện
nam tử! Núi ở bờ bên kia là ví với Như Lai; hưởng được
nhiều sự an vui là ví với Phật thường an trụ. Đỉnh núi
cao kia là ví với Đại Niết-bàn.
“Thiện
nam tử! Những người ở ven sông Hằng ấy đều có đủ tay
chân nhưng không thể bơi qua khỏi sông. Tất cả chúng sanh
cũng giống như vậy, quả thật sẵn có Phật bảo, Pháp bảo,
Tăng bảo, những yếu nghĩa của các pháp mà Như Lai thường
thuyết; có Tám Thánh đạo, Đại Niết-bàn, nhưng đều không
thể đạt được những điều ấy. Đó không phải lỗi của
Như Lai, cũng không phải lỗi nơi Thánh đạo, mà là lỗi của
chúng sanh. Nên biết rằng đó đều là những tai hại xấu
ác của phiền não. Vì nghĩa ấy nên tất cả chúng sanh không
đạt đến Niết-bàn.
“Thiện
nam tử! Ví như vị lương y biết rõ bệnh, chỉ bày phương
thuốc, nhưng người bệnh không uống, đó chẳng phải lỗi
của lương y.
“Thiện
nam tử! Ví như có vị thí chủ, dùng những vật sở hữu
của mình thí cho tất cả mọi người, nhưng nếu có kẻ không
nhận thì đó chẳng phải lỗi của vị thí chủ.
“Thiện
nam tử! Ví như mặt trời mọc lên, những chỗ tối tăm đều
trở nên sáng rõ, nhưng người mù không thấy đường đi,
đó chẳng phải lỗi của mặt trời.
“Thiện
nam tử! Như nước sông Hằng trừ được sự khát, nhưng nếu
kẻ khát không chịu uống, đó chẳng phải lỗi của nước
sông Hằng.
“Thiện
nam tử! Ví như mặt đất sanh ra đủ mọi thứ quả, hạt,
vốn là bình đẳng không phân biệt, nhưng nếu người nông
phu không gieo trồng, đó chẳng phải lỗi của đất.
“Thiện
nam tử! Như Lai vì tất cả chúng sanh, mở bày phân biệt giảng
giải Mười hai bộ kinh, nhưng nếu chúng sanh không thọ nhận,
đó chẳng phải lỗi của Như Lai.
“Thiện
nam tử! Nếu tu tập theo Chánh đạo tất nhiên sẽ đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện
nam tử! Như lời ông nói: ‘Chúng sanh đều có tánh Phật,
lẽ ra đều đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề;
[vì] tánh Phật ấy cũng như đá nam châm [sẵn có tính chất
hút mạt sắt].
“Lành
thay, lành thay! Nhờ có sức nhân duyên tánh Phật mà đạt
được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nhưng nếu nói rằng
không cần tu Thánh đạo thì nghĩa ấy không đúng.
“Thiện
nam tử! Ví như có một người đi qua vùng hoang vắng, đang
khát nước và gặp được một cái giếng. Giếng ấy sâu
tối, tuy không thấy được nước nhưng người ấy biết chắc
rằng dưới giếng có nước, bèn dùng phương tiện tìm thùng,
kiếm dây, múc lên và thấy được nước.
“Tánh
Phật cũng như thế. Tất cả chúng sanh tuy có tánh Phật, nhưng
cần phải tu tập Thánh đạo vô lậu, sau đó mới thấy được
tánh Phật.
“Thiện
nam tử! Ví như có mè ắt được dầu mè. Nhưng nếu lìa bỏ
các phương tiện [để ép dầu] thì không thấy được dầu.
Ví như cây mía cũng vậy, [tuy sẵn có đường nhưng nếu không
có phương tiện thì không có được đường.]
“Thiện
nam tử! Như cõi trời Ba mươi ba và châu Uất-đan-việt ở
phương bắc tuy là thật có, nhưng nếu không có thiện nghiệp,
thần thông, đạo lực thì không thể thấy được.
“Cũng
như rễ cỏ dưới mặt đất và nước ngầm nằm sâu dưới
đất, vì mặt đất che lấp nên chúng sanh không thấy được.
Tánh Phật cũng vậy, vì chúng sanh không tu tập Thánh đạo
nên không thể thấy được.
“Thiện
nam tử! [Như ông có thắc mắc về nghĩa này]: ‘Có những
bệnh nhân cho dù được gặp thầy thuốc, được người săn
sóc, dùng thuốc tốt, tùy bệnh mà ăn uống [thích hợp], hoặc
là không gặp được những điều kiện ấy cũng đều khỏi
bệnh.’
“Thiện
nam tử! Ta vì hàng Bồ Tát trụ ở sáu địa vị đầu tiên
mà nói nghĩa như vậy.
“Thiện
nam tử! Như đối với chúng sanh thì hư không chẳng phải
ở trong, cũng chẳng phải ở ngoài. Vì chẳng phải ở trong,
chẳng phải ở ngoài nên không có sự ngăn ngại. Tánh Phật
của chúng sanh cũng giống như vậy.
“Thiện
nam tử! Ví như có người hiện cất giữ tiền bạc ở nơi
xa; tuy hiện thời không thể tùy ý sử dụng, nhưng có người
hỏi đến ắt có thể hứa cho. Vì sao vậy? Vì đã chắc chắn
là có tiền. Tánh Phật của chúng sanh cũng giống như vậy,
chẳng phải ở chỗ này, chẳng phải ở chỗ kia, nhưng vì
chắc chắn sẽ có được nên ta nói rằng tất cả chúng sanh
đều có tánh Phật.
“Thiện
nam tử! Ví như chúng sanh tạo tác các nghiệp, hoặc thiện,
hoặc ác, đều không phải ở trong, cũng không phải ở ngoài.
Tánh của các nghiệp như thế là chẳng phải có, chẳng phải
không, cũng chẳng phải trước không mà sau có, lại chẳng
phải không do nhân mà có; chẳng phải tạo tác thế này thọ
nhận thế này, hoặc tạo tác thế này thọ nhận thế ấy;
hoặc tạo tác thế ấy thọ nhận thế ấy, hoặc không tạo
tác, không thọ nhận. Do có đủ các điều kiện hòa hợp
và thời điểm thích hợp mà có quả báo.
“Tánh
Phật của chúng sanh cũng giống như vậy, cũng chẳng phải
trước không mà sau có, chẳng phải ở trong, chẳng phải ở
ngoài; chẳng phải có, chẳng phải không; chẳng phải chỗ
này, chẳng phải chỗ kia, chẳng phải từ chỗ khác đến;
chẳng phải không có nhân duyên; cũng chẳng phải tất cả
chúng sanh đều không thấy. Có các vị Bồ Tát khi hội đủ
các điều kiện nhân duyên hòa hợp liền thấy được tánh
Phật. Các điều kiện, đó là nói hàng Đại Bồ Tát ở địa
vị Thập trụ, tu tập Tám Thánh đạo, đạt được tâm bình
đẳng đối với các chúng sanh, khi ấy thấy được tánh Phật,
không gọi là tạo tác.
“Thiện
nam tử! Như đưa ra ví dụ rằng [tánh Phật] giống như đá
nam châm, nghĩa ấy chẳng đúng. Vì sao vậy? Đá không hút
[mạt] sắt. Vì lý do gì? Vì nghiệp [của đá ấy] là không
có tâm.
“Thiện
nam tử! Có những pháp hiện hữu nên các pháp khác sanh ra;
có những pháp không hiện hữu nên các pháp khác hoại diệt;
[thật] không có ai làm cho chúng sanh ra, [cũng] không có ai làm
cho chúng hoại diệt.
“Thiện
nam tử! Như ngọn lửa mạnh thật không thể thiêu mất củi,
chỉ vì khi lửa hiện ra, củi hoại mất, nên gọi là thiêu
mất củi.
“Thiện
nam tử! Ví như hoa hướng dương xoay theo mặt trời, nhưng
hoa ấy không hề có lòng cung kính, không có nhận thức, cũng
không có nghiệp. Chỉ vì có tánh pháp riêng biệt nên tự
nhiên xoay theo.
“Thiện
nam tử! Như cây chuối, nhân tiếng sấm mà lớn lên. Nhưng
loài cây này không có tai nghe, cũng không có tâm ý, nhận thức.
Chỉ vì có pháp này hiện hữu mà pháp kia tăng trưởng; vì
pháp này không hiện hữu mà pháp kia hoại diệt.
“Thiện
nam tử! Như cây a-thúc-ca, khi có nữ nhân chạm vào thì hoa
nó nở ra. Cây ấy không có tâm ý, cũng không có cảm giác
về sự đụng chạm. Chỉ vì có pháp này hiện hữu mà pháp
kia sanh ra; vì pháp này không hiện hữu mà pháp kia hoại diệt.
“Thiện
nam tử! Như cây quít dùng xác thú vật làm phân bón thì rất
sai trái. Nhưng cây quít ấy không có tâm ý, cũng không có
cảm xúc. Chỉ vì có pháp này hiện hữu mà pháp kia sanh ra;
vì pháp này không hiện hữu mà pháp kia hoại diệt.
“Thiện
nam tử! Như cây an-thạch-lựu, nhờ dùng xương nung làm phân
bón nên trái sai hạt nhiều. Nhưng cây an-thạch-lựu cũng không
hề có tâm ý, cảm xúc. Chỉ vì có pháp này hiện hữu mà
pháp kia sanh ra; vì pháp này không hiện hữu mà pháp kia hoại
diệt.
“Thiện
nam tử! Đá nam châm hút mạt sắt cũng giống như vậy: vì
có pháp này hiện hữu mà pháp kia sanh ra; vì pháp này không
hiện hữu mà pháp kia hoại diệt. Tánh Phật của chúng sanh
cũng giống như vậy, không thể do sức cuốn hút [của tánh
Phật] mà đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện
nam tử! Vô minh không thể hấp dẫn các hành; các hành cũng
không thể hấp dẫn các thức; nhưng có thể nói là vô minh
duyên với hành, hành duyên với thức. Dầu có hay không có
Phật, cõi pháp vẫn là thường trụ [diễn tiến như vậy].
“Thiện
nam tử! Pháp thường tồn là không có chỗ trụ. Nếu nói
rằng tánh Phật trụ nơi chúng sanh, ấy là có chỗ trụ, tức
là vô thường.
“Thiện
nam tử! Như Mười hai nhân duyên không có chỗ trụ nhất định;
nếu có chỗ trụ thì Mười hai nhân duyên ấy không gọi là
thường. Pháp thân của Như Lai cũng không có chỗ trụ. Các
pháp giới, nhập, ấm[195] và hư không, thảy đều không có
chỗ trụ. Tánh Phật cũng thế, hoàn toàn không có chỗ trụ.
“Thiện
nam tử! Ví như bốn đại tuy có năng lực cân bằng nhau, nhưng
trong đó có chất cứng, có chất nóng, có chất ướt, có
chất chuyển động; lại có nặng có nhẹ, có đỏ có trắng,
có vàng có đen... Nhưng bốn đại ấy thật không có nghiệp,
vì thuộc về các pháp khác nhau nên mỗi loại đều chẳng
giống nhau. Tánh Phật cũng thế, vì thuộc về pháp khác nhau,
nên đến lúc thích hợp ắt sẽ hiện ra.
“Thiện
nam tử! Tất cả chúng sanh vì không thối chuyển đối với
tánh Phật nên gọi là có tánh Phật. Vì có trí tuệ không
thối chuyển, nên sẽ có tánh Phật. Vì chắc chắn rồi sẽ
được, nhất định rồi sẽ thấy, nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật.
“Thiện
nam tử! Ví như có vị vua sai quan đại thần: ‘Hãy dắt một
con voi đến cho những người mù xem.’ Bấy giờ, viên quan
nhận lệnh vua, tập trung nhiều người mù lại rồi đưa voi
đến cho họ. Những người mù ấy đều dùng tay để sờ
con voi. Viên quan đại thần trở về tâu lên vua rằng: ‘Thần
đã cho họ xem voi rồi.’ Nhà vua liền cho gọi những người
mù ấy đến, hỏi từng người rằng: ‘Các ông có thấy
voi chăng? Những người mù ấy thảy đều đáp: ‘Tôi đã
thấy rồi.’ Vua liền hỏi: ‘Con voi giống như vật gì?’
“Người
mù đã sờ ngà voi liền đáp: ‘Con voi có hình dạng như củ
cải.’ Người mù đã sờ nhằm tai voi tâu: ‘Con voi có hình
dạng [tròn dẹp] như cái nia.’ Người mù sờ đầu voi lại
nói: ‘Con voi hình dạng [to và cứng] như khối đá.’ Người
mù đã sờ vòi voi nói: ‘Con voi có hình dạng [tròn và dài]
như cái chày. Người mù sờ chân voi lại nói: ‘Con voi có
hình dạng như cái cối gỗ.’ Người mù đã sờ lưng voi
lại nói: ‘Con voi có hình dạng như cái giường nằm.’ Người
mù sờ bụng voi thì nói: ‘Con voi có hình dạng [tròn to] như
cái lu. Kẻ sờ nhằm đuôi voi lại nói: ‘Con voi có hình dạng
như sợi dây thừng lớn.’
“Thiện
nam tử! Những người mù ấy thật không nói được [đủ]
hình thể của con voi, nhưng cũng không phải là không nói được.
Nếu là các tướng [như họ nói] thì chẳng phải voi, nhưng
lìa khỏi các tướng trạng ấy cũng không riêng có voi.
“Thiện
nam tử! Vị vua ấy ví với đức Như Lai, bậc Chánh biến
tri vậy; viên quan đại thần là ví với kinh Phương đẳng
Đại Niết-bàn; con voi là ví với tánh Phật; những người
mù là ví với tất cả chúng sanh còn mê muội.
“Các
chúng sanh ấy sau khi nghe Phật thuyết dạy, có kẻ liền nói
rằng: ‘Hình sắc là tánh Phật. Vì sao vậy? Hình sắc này
tuy diệt nhưng vẫn tuần tự nối nhau không dứt, do đó mới
đạt được Ba mươi hai tướng cao trổi nhất của Như Lai.
Sắc của Như Lai là thường, vì sắc của Như Lai là thường
trụ, không dứt mất, cho nên nói rằng hình sắc là tánh Phật.
Ví như vàng thật, tuy hình chất dời đổi nhưng màu sắc
vẫn không đổi khác; hoặc dùng làm vòng đeo tay, làm lược,
làm mâm... nhưng màu sắc vẫn không thay đổi. Tánh Phật của
chúng sanh cũng giống như vậy, hình chất tuy là vô thường
nhưng sắc vẫn là thường. Cho nên nói rằng hình sắc là
tánh Phật.’
“Lại
có người nói rằng: ‘Cảm thọ là tánh Phật. Vì sao vậy?
Do nhân duyên là cảm thọ mới đạt được sự vui chân thật
của Như Lai. Cảm thọ của Như Lai là cảm thọ rốt ráo,
là cảm thọ chân thật đệ nhất. Cảm thọ của chúng sanh
tuy tánh là vô thường nhưng tuần tự tiếp nối không dứt
nên mới có thể đạt đến cảm thọ thường tồn của Như
Lai. Ví như có người mang họ Kiều-thi-ca, người tuy vô thường
nhưng họ ấy là thường, dù trải qua muôn đời vẫn không
thay đổi. Tánh Phật của chúng sanh cũng giống như vậy, cho
nên nói rằng cảm thọ là tánh Phật.’
“Lại
có người nói rằng: ‘Tưởng là tánh Phật. Tại sao vậy?
Nhờ nhân duyên là niệm tưởng mà có thể đạt được tưởng
chân thật của Như Lai. Cái tưởng của Như Lai gọi là cái
tưởng không có niệm tưởng. Cái tưởng không có niệm tưởng
đó chẳng phải niệm tưởng chúng sanh, chẳng phải niệm
tưởng nam nữ, cũng chẳng phải niệm tưởng thuộc về sắc,
thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng thuộc về những niệm
tưởng dứt đoạn. Niệm tưởng của chúng sanh tuy là vô thường,
nhưng nhờ niệm tưởng ấy tuần tự nối tiếp không dứt
nên mới có thể đạt được cái tưởng thường tồn của
Như Lai.[196] Ví như Mười hai nhân duyên của chúng sanh; chúng
sanh tuy diệt mất nhưng nhân duyên vẫn là thường. Tánh Phật
của chúng sanh cũng giống như vậy; cho nên nói rằng tưởng
là tánh Phật.’
“Lại
có người nói rằng: ‘Hành là tánh Phật. Vì sao vậy? Hành
gọi là thọ mạng. Do nhân duyên là thọ mạng này mà đạt
được thọ mạng thường trụ của Như Lai. Thọ mạng của
chúng sanh tuy là vô thường nhưng tuần tự nối tiếp không
dứt, nên [nhờ đó] mới đạt được cái thọ mạng thường
trụ, chân thật của Như Lai.[197] Ví như Mười hai bộ kinh,
tuy kẻ nghe kinh và người giảng kinh đều là vô thường,
nhưng kinh điển ấy vẫn là thường tồn, không biến đổi.
Tánh Phật của chúng sanh cũng giống như vậy, cho nên nói
rằng hành là tánh Phật.’
“Lại
có người nói rằng: ‘Thức là tánh Phật. Vì sao vậy? Do
nhân duyên là thức mà đạt được tâm bình đẳng của Như
Lai. Ý thức của chúng sanh tuy là vô thường nhưng tuần tự
tiếp nối không dứt, nên mới có thể đạt được tâm thường
hằng và chân thật của Như Lai. Ví như tính chất của lửa
là nóng ấm. Lửa ấy tuy vô thường nhưng tánh nóng chẳng
phải vô thường. Tánh Phật của chúng sanh cũng giống như
vậy, cho nên nói rằng thức là tánh Phật.’
“Lại
có người nói rằng: ‘Lìa các ấm thì có ngã, ngã ấy là
tánh Phật. Vì sao vậy? Do nhân duyên là ngã mà đạt được
cái ngã có Tám đức tự tại của Như Lai. Có những ngoại
đạo nói rằng: Những sự đi lại, thấy nghe, buồn vui, nói
năng giảng thuyết... là ngã. Những tướng ngã ấy tuy là
vô thường, nhưng cái ngã của Như Lai chân thật là thường.[198]
Như ấm, nhập, giới tuy là vô thường nhưng cũng gọi là
thường. Tánh Phật của chúng sanh cũng giống như vậy.’
“Thiện
nam tử! Như những người mù kia, mỗi người đều nói về
con voi. Tuy chưa đạt đến sự thật, nhưng quả thật đều
là nói về con voi. Những kẻ nói về tánh Phật [như trên]
cũng giống như vậy. Tánh Phật không phải là sáu pháp [sắc,
thọ, tưởng, hành, thức và ngã], nhưng cũng không lìa ra ngoài
sáu pháp ấy.
“Thiện
nam tử! Cho nên ta có dạy rằng: ‘Tánh Phật của chúng sanh
chẳng phải sắc, chẳng lìa sắc... cho đến chẳng phải ngã,
chẳng lìa ngã.’[199]
“Thiện
nam tử! Có những ngoại đạo tuy nói có ngã nhưng thật là
vô ngã. Cái ngã [giả tạm] của chúng sanh tức là năm ấm;
lìa ra ngoài năm ấm không riêng có ngã.
“Thiện
nam tử! Ví như cọng sen, cánh sen, tua sen, gương sen cùng hợp
lại thành đóa hoa sen; lìa khỏi các thứ này thì không riêng
có hoa sen nào khác. Cái ngã của chúng sanh cũng giống như
vậy.
“Thiện
nam tử! Ví như những tường vách, cây cột, cỏ lợp [thành
mái]... cùng hợp lại gọi là cái nhà; lìa khỏi những thứ
ấy không riêng có cái nhà nào khác!
“Như
các loại cây khư-đà-la, ba-la-xa, ni-câu-đà, uất-đàm-bát...
cùng hợp lại thành khu rừng, lìa khỏi các thứ cây ấy không
riêng có khu rừng nào khác.
“Ví
như các loại quân dùng xe, quân cưỡi voi, quân cưỡi ngựa,
quân đánh bộ cùng hợp thành quân đội; lìa khỏi các loại
quân ấy không riêng có quân đội nào khác.
“Ví
như những sợi chỉ dệt xen lẫn năm màu hòa hợp gọi là
tấm lụa thêu; lìa khỏi những sợi chỉ năm màu ấy không
riêng có tấm lụa thêu nào khác.
“Như
cả bốn chủng tánh[200] hợp lại gọi là đại chúng; lìa
khỏi các chủng tánh ấy không riêng có đại chúng nào khác.
“Cái
ngã của chúng sanh cũng giống như vậy; lìa khỏi năm ấm
thì không riêng có cái ngã nào khác!
“Thiện
nam tử! Đấng Như Lai thường trụ, ắt gọi là ngã. Pháp
thân Như Lai không giới hạn, không ngăn ngại, không sanh, không
diệt, có Tám đức tự tại, đó gọi là ngã. Chúng sanh quả
thật không có cái ngã [chân thật] và những đức thuộc về
ngã như vậy, chỉ vì chắc chắn họ sẽ đạt được nghĩa
không chân thật rốt ráo đệ nhất, cho nên gọi là [có] tánh
Phật.
“Thiện
nam tử! Đại từ, đại bi gọi là tánh Phật. Vì sao vậy?
Vì đại từ, đại bi thường theo Bồ Tát như bóng theo hình.
Tất cả chúng sanh chắc chắn sẽ đạt được đại từ,
đại bi, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.
Đại từ, đại bi gọi là tánh Phật. Tánh Phật gọi là Như
Lai.
“Đại
hỷ, đại xả gọi là tánh Phật. Vì sao vậy? Vì nếu Bồ
Tát ma-ha-tát không thể buông xả Hai mươi lăm cảnh giới
hiện hữu ắt không thể đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề. Vì tất cả chúng sanh chắc chắn sẽ đạt được
quả ấy nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.
Đại hỷ, đại xả tức là tánh Phật. Tánh Phật tức là
Như Lai.
“Đức
tin lớn lao gọi là tánh Phật. Vì sao vậy? Vì nhờ đức tin
mà Bồ Tát ma-ha-tát thể đạt được đầy đủ từ Bố thí
Ba-la-mật cho đến Bát-nhã Ba-la-mật. Vì tất cả chúng sanh
chắc chắn sẽ có được đức tin nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật. Đức tin lớn lao tức là tánh
Phật. Tánh Phật tức là Như Lai.
“Địa
vị Nhất tử [của hàng Bồ Tát][201] gọi là tánh Phật. Vì
sao vậy? Vì nhờ nhân duyên là địa vị này, Bồ Tát đạt
được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh. Vì tất
cả chúng sanh chắc chắn sẽ đạt đến địa vị Nhất tử,
nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Địa
vị Nhất tử tức là tánh Phật. Tánh Phật tức là Như Lai.
“Trí
lực thứ tư [trong Thập lực][202] gọi là tánh Phật. Vì sao
vậy? Vì nhờ nhân duyên là trí lực này, Bồ Tát có thể
giáo hóa chúng sanh. Vì tất cả chúng sanh chắc chắn sẽ đạt
được trí lực thứ tư này, nên nói rằng tất cả chúng
sanh đều có tánh Phật. Trí lực thứ tư tức là tánh Phật.
Tánh Phật tức là Như Lai.
“Mười
hai nhân duyên gọi là tánh Phật. Vì sao vậy? Vì nhờ những
nhân duyên ấy mà Như Lai thường trụ. Vì tất cả chúng sanh
chắc chắn đều có Mười hai nhân duyên như vậy nên nói
rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Mười hai nhân
duyên tức là tánh Phật. Tánh Phật tức là Như Lai.
“Bốn
trí không ngăn ngại[203] gọi là tánh Phật. Vì sao vậy? Vì
nhờ nhân duyên là Bốn trí không ngăn ngại mà có thể giảng
nói ý nghĩa từ ngữ một cách không ngăn ngại. Nhờ không
ngăn ngại đối với ý nghĩa của từ ngữ nên có thể giáo
hóa chúng sanh. Bốn trí vô ngại tức là tánh Phật. Tánh Phật
tức là Như Lai.
“Đỉnh
tam-muội[204] gọi là tánh Phật. Vì sao vậy? Vì tu tập pháp
Đỉnh tam-muội ấy ắt có thể tổng nhiếp tất cả pháp
Phật. Cho nên nói rằng Đỉnh tam-muội gọi là tánh Phật.
Hàng Bồ Tát Thập trụ tu tập phép tam-muội ấy nhưng chưa
đạt được đầy đủ, nên tuy thấy được tánh Phật mà
chưa được sáng rõ. Vì lẽ tất cả chúng sanh chắc chắn
sẽ đạt được phép Đỉnh tam-muội nên nói rằng tất cả
chúng sanh đều có tánh Phật.
“Thiện
nam tử! Như trên ta vừa giảng qua đủ mọi pháp khác nhau,
[những pháp ấy] tất cả chúng sanh chắc chắn đều sẽ đạt
được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật.
“Thiện
nam tử! Nếu ta dạy rằng sắc là tánh Phật, chúng sanh nghe
vậy ắt khởi sanh lòng tà vạy điên đảo. Vì tà vạy điên
đảo nên khi mạng chung ắt phải sanh vào địa ngục A-tỳ.
Như Lai thuyết pháp là muốn trừ dứt trừ [nghiệp] địa
ngục, cho nên không nói rằng sắc là tánh Phật, cho đến
[cũng không] nói thức [là tánh Phật].[205]
“Thiện
nam tử! Nếu các chúng sanh thấy rõ tánh Phật ắt không cần
tu tập Chánh đạo. [Nhưng] hàng Bồ Tát Thập trụ tu tập
Tám Thánh đạo còn chỉ thấy được đôi chút tánh Phật,
huống chi những kẻ không tu tập lẽ nào lại thấy được
hay sao?
“Thiện
nam tử! Như Văn-thù-sư-lợi và các vị Bồ Tát đã trải
qua vô lượng kiếp tu tập Thánh đạo mới rõ biết tánh Phật,
làm sao hàng Thanh văn và Phật Bích-chi có thể biết được
tánh Phật? Nếu chúng sanh muốn rõ biết tánh Phật, cần phải
hết lòng thọ trì, đọc tụng, sao chép, giảng thuyết, cúng
dường, cung kính, tôn trọng, tán thán kinh Niết-bàn này. Như
thấy ai thọ trì, đọc tụng... cho đến tôn trọng, tán thán
kinh này thì nên dùng những thứ tốt đẹp như phòng ốc,
y phục, thực phẩm, giường nằm, thuốc men... để cung cấp
cho người ấy, cũng như phải ngợi khen xưng tán, lễ bái,
thường đến thăm hỏi.
“Thiện
nam tử! Những ai đã từng trải qua vô lượng vô biên kiếp
quá khứ gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật, trồng
sâu căn lành, mới có thể được nghe đến danh hiệu kinh
này.
“Thiện
nam tử! Tánh Phật là không thể nghĩ bàn; Phật bảo, Pháp
bảo và Tăng bảo cũng là không thể nghĩ bàn. Tất cả chúng
sanh đều có tánh Phật nhưng không biết được, việc này
cũng là không thể nghĩ bàn. Các pháp thường, lạc, ngã, tịnh
của Như Lai cũng là không thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sanh
có thể tin vào kinh Đại Niết-bàn này, điều đó cũng là
không thể nghĩ bàn.”
Bồ
Tát Sư Tử Hống bạch Phật: “Thế Tôn! Như Phật vừa nói:
‘Tất cả chúng sanh có thể tin vào kinh Đại Niết-bàn này,
điều đó cũng là không thể nghĩ bàn.’
“Thế
Tôn! Trong đại chúng này có tám vạn năm ngàn ức người
không sanh lòng tin đối với kinh này. Cho nên nếu ai có thể
tin vào kinh này, đó gọi là không thể nghĩ bàn.”
Phật
dạy: “Thiện nam tử! Những người [không sanh lòng tin] như
vậy, trong đời vị lai chắc chắn rồi cũng sẽ có được
lòng tin đối với kinh này, sẽ thấy được tánh Phật, đạt
được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”
Bồ
Tát Sư Tử Hống lại thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Làm sao
vị Bồ Tát không thối chuyển tự biết chắc chắn rằng
mình có tâm không thối chuyển?”
Phật
dạy: “Thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát nên dùng sự khổ
hạnh mà tự nghiệm biết tâm mình. Mỗi ngày chỉ ăn một
hạt mè, trải qua bảy ngày; rồi tiếp đến là gạo, đậu
xanh, hạt gai, lúa nếp, đậu trắng, mỗi thứ như vậy cũng
chỉ ăn mỗi ngày một hạt trong suốt bảy ngày. Trong mỗi
một giai đoạn bảy ngày như vậy đều giống như trong khi
ăn mỗi ngày một hạt mè, Bồ Tát thường suy nghĩ rằng:
‘Khổ hạnh như thế này hoàn toàn không có lợi ích gì cả.
Việc không lợi ích mà [ta] còn làm được, huống chi những
việc có lợi ích lẽ nào lại không làm? Đối với việc
không lợi ích mà tâm [ta] có thể nhẫn chịu, không hề thối
chuyển, cho nên nhất định [ta] sẽ đạt được A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Những
ngày tu hành khổ hạnh như vậy, tất cả da thịt Bồ Tát
đều gầy tóp, nhăn nheo, như trái bầu tươi cắt đem phơi
nắng; hố mắt lõm sâu vào [chỉ còn lấp lánh] như ngôi sao
[nhìn thấy] dưới đáy giếng; thân không còn thịt, xương
sườn lộ ra, như căn nhà tranh mục nát [bày ra các sườn
tre]; các đốt xương sống liền nhau hiện ra, trông như một
sợi dây thừng lớn xoắn lại; khi ngồi nơi nào thì [xương
bàn tọa] lún vào mặt đất như hình móng chân ngựa; khi muốn
ngồi thì gục xuống, khi muốn đứng lại ngã lăn. Tuy chịu
đựng những nổi khổ không lợi ích như vậy, nhưng Bồ Tát
không hề thối mất tâm Bồ-đề.
“Lại
nữa, Bồ Tát ma-ha-tát vì muốn phá trừ mọi sự khổ não,
ban phát sự an vui, nên có thể xả bỏ hết mọi thứ quý
giá ở trong và ngoài thân, cho đến cả thân mạng, như người
ta vất bỏ nắm cỏ rơm. Nếu có thể không tham tiếc thân
mạng, thì Bồ Tát tự biết rằng mình chắc chắn có tâm
không thối chuyển, biết chắc rằng mình sẽ đạt được
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại
nữa, Bồ Tát, vì nhân duyên Chánh pháp mà khoét thân mình
làm đèn, dùng da thịt đắp quanh nhiều lớp, tưới dầu vào
mà đốt, dùng thân mình làm tim đèn. Bấy giờ, Bồ Tát nhận
chịu sự khổ não lớn lao như vậy lại tự quở trách lòng
mình rằng: ‘Sự khổ này so với sự khổ ở địa ngục
chưa được một phần trong trăm ngàn muôn phần. Dù ta có
chịu khổ não lớn lao trong vô lượng trăm ngàn kiếp cũng
hoàn toàn không có lợi ích gì, nhưng nếu không chịu đựng
được nỗi khổ nhỏ này, làm sao có thể ở trong địa ngục
mà cứu khổ cho chúng sanh?’
“Bồ
Tát ma-ha-tát quán niệm như vậy rồi, tự thân không còn thấy
khổ; tâm không thối lui, không lay động, không chuyển đổi.
Khi ấy Bồ Tát nên tự rõ biết sâu xa rằng chắc chắn mình
sẽ đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện
nam tử! Lúc bấy giờ, vì Bồ Tát chưa trừ dứt được nên
vẫn còn đủ các phiền não, nhưng vì nhân duyên Chánh pháp
mà Bồ Tát có thể dùng đầu mắt, tủy não, tay chân, máu
thịt của mình để bố thí cho kẻ khác; hoặc dùng đinh nhọn
đóng vào thân, hoặc nhảy vào lửa đỏ. Lúc ấy, tuy Bồ
Tát chịu đựng vô lượng khổ não, nhưng nếu tâm không thối
lui, không lay động, không chuyển đổi thì Bồ Tát nên biết
chắc rằng đã có được tâm không thối chuyển, chắc chắn
sẽ đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Thiện
nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát vì muốn trừ hết khổ não cho tất
cả chúng sanh nên nguyện [sanh] làm thân súc vật to lớn thô
kệch để dùng máu thịt của chính thân mình mà bố thí cho
chúng sanh. Khi chúng sanh bắt được mình, Bồ Tát lại sanh
lòng thương xót họ, liền tự mình nín thở, hiện tướng
như đã chết, để những kẻ bắt giữ Bồ Tát không phải
sanh tâm lo ngại rằng đã phạm tội giết hại. Tuy Bồ Tát
thọ thân súc sanh nhưng thật không hề có tạo nghiệp súc
sanh. Vì sao vậy? Thiện nam tử! Bồ Tát đã được tâm không
thối chuyển rồi thì không bao giờ tạo tác nghiệp [để
phải sanh vào] trong ba đường ác.
“Nếu
trong đời vị lai Bồ Tát ma-ha-tát có những quả báo của
nghiệp ác nhiều như số hạt bụi nhỏ, cũng không nhất định
phải thọ nhận, nhưng Bồ Tát dùng sức nguyện lớn, vì tất
cả chúng sanh mà thọ nhận tất cả. Ví như người bệnh
bị loài quỷ mị nhập vào, ẩn nấp trong thân [không ai thấy
được]. Nhờ sức chú thuật liền hiện ra các tướng, hoặc
nói năng, hoặc vui mừng, hoặc giận dữ, hoặc chửi mắng,
hoặc kêu khóc. Những nghiệp [ác phải sanh] trong ba đường
ác vào đời vị lai của Bồ Tát ma-ha-tát cũng giống như
vậy.
“Bồ
Tát ma-ha-tát, khi thọ thân loài gấu vẫn thường giảng thuyết
Chánh pháp với chúng sanh; hoặc thọ thân loài chim trĩ[206]
cũng là vì để giảng thuyết Chánh pháp với chúng sanh; hoặc
thọ thân cồ-đà, thân hươu, thân thỏ, thân voi, thân dê
đen, thân khỉ, thân bồ câu trắng, thân chim kim sí, các thân
rồng, rắn... Đang khi thọ các thân súc sanh như vậy nhưng
Bồ Tát không hề tạo tác các nghiệp ác của súc sanh, thường
vì những chúng sanh súc sanh khác mà giảng thuyết Chánh pháp,
khiến họ nghe pháp rồi liền được nhanh chóng chuyển hóa,
lìa bỏ thân súc sanh. Bấy giờ, tuy Bồ Tát thọ thân súc
sanh nhưng không hề tạo tác các nghiệp ác nên biết chắc
rằng đã có được tâm không thối chuyển.
“Gặp
thời đói kém, Bồ Tát ma-ha-tát nhìn thấy chúng sanh đói
khổ bèn sanh làm thân rùa, thân cá, dài đến vô lượng do-diên;
lại phát nguyện rằng: ‘Nguyện khi chúng sanh cắt lấy thịt
trong thân ta, liền ngay khi ấy sanh ra thịt khác; nhờ ăn thịt
ta mà thoát được nỗi khổ đói khát, rồi tất cả đều
phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề!’
“Bồ
Tát phát nguyện rằng: ‘Những ai nhờ ta mà được lìa khỏi
đói khát, nguyện cho về đời vị lai cũng sẽ nhanh chóng
được lìa xa nạn đói khát trong Hai mươi lăm cảnh giới
hiện hữu!’
“Bồ
Tát ma-ha-tát thọ khổ như vậy mà tâm không thối chuyển,
nên biết chắc chắn rằng sẽ đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề.
“Lại
nữa, gặp thời có dịch bệnh lan tràn, Bồ Tát nhìn thấy
những kẻ bệnh khổ liền suy nghĩ rằng: ‘Như cây thuốc
chúa, nếu người bệnh được dùng rễ, thân hay cành lá,
hoa, quả của cây ấy đều được khỏi bệnh. Nguyện cho
thân ta đây cũng giống như vậy! Nếu người có bệnh nghe
được tiếng ta, chạm vào thân ta, hoặc ăn thịt, uống máu
ta, cho đến dùng xương tủy của ta đều sẽ được khỏi
bệnh. Nguyện cho các chúng sanh trong khi ăn thịt ta không sanh
tâm độc ác, [thương xót] như ăn thịt con mình! Ta trị bệnh
cho chúng sanh rồi lại thường vì họ thuyết pháp, nguyện
cho họ sẽ tin nhận, suy xét và mang giáo pháp dạy cho những
người khác!
“Lại
nữa, thiện nam tử! Bồ Tát vẫn còn đủ các phiền não,
tuy thân chịu khổ nhưng tâm không thối lùi, không lay động,
không chuyển đổi, nên biết chắc rằng đã được tâm không
thối chuyển, sẽ thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
“Lại
nữa, thiện nam tử! Nếu có những chúng sanh bị quỷ mị
làm cho mắc bệnh, Bồ Tát thấy vậy rồi liền nói: ‘Ta
nguyện làm thân quỷ to lớn, dũng kiện, có nhiều quyến thuộc,
khiến những người kia hoặc nghe hoặc thấy [thân ta] liền
được khỏi bệnh!’ Bồ Tát ma-ha-tát vì chúng sanh mà siêng
tu khổ hạnh, tuy có phiền não nhưng không hề bị nhiễm ô
trong tâm.
“Lại
nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát tuy cũng tu hành sáu pháp
ba-la-mật nhưng không cầu được [hưởng] quả của sáu pháp
ba-la-mật. Trong khi tu hành sáu pháp ba-la-mật không gì hơn
được, Bồ Tát phát nguyện rằng: ‘Nay ta dùng sáu pháp ba-la-mật
này bố thí cho tất cả chúng sanh. Nguyện cho mỗi chúng sanh
sau khi thọ nhận bố thí của ta rồi đều được thành tựu
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Chính ta cũng thực hành
sáu pháp ba-la-mật, siêng tu khổ hạnh, nhận chịu các khổ
não. Đang khi thọ nhận khổ não, ta nguyện không thối chuyển
tâm Bồ-đề!’ Thiện nam tử! Khi Bồ Tát ma-ha-tát quán tưởng
như thế thì gọi là tướng Bồ-đề không thối chuyển.
“Lại
nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát là không thể nghĩ bàn.
Vì sao vậy? Bồ Tát ma-ha-tát rõ biết sâu xa rằng cuộc sanh
tử có nhiều tai hại, nhìn thấy Đại Niết-bàn có công đức
lớn. Dù vậy, Bồ Tát vì chúng sanh mà thường ở chốn sanh
tử, nhận chịu mọi thứ khổ não nhưng tâm không hề thối
chuyển. Cho nên gọi là Bồ Tát không thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, thiện nam tử! Bồ Tát ma-ha-tát không cần có nhân duyên
gì mà vẫn sanh lòng thương xót [tất cả chúng sanh]; Bồ Tát
không chịu [ơn] mà thường làm ơn [với kẻ khác]. Tuy Bồ
Tát làm ơn nhưng không cầu sự báo đáp. Đó cũng gọi là
không thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, thiện nam tử! Hoặc có những chúng sanh vì lợi ích
riêng mình mà tu hành khổ hạnh. Bồ Tát ma-ha-tát chỉ vì
lợi ích cho người khác mà tu hành khổ hạnh, xem đó là lợi
ích cho chính mình. Cho nên cũng gọi là không thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, Bồ Tát tuy còn đủ mọi phiền não, nhưng vì muốn phá
trừ sự khổ não cho cả kẻ oán lẫn người thân, liền tu
tập tâm bình đẳng. Đó cũng gọi là không thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, nếu Bồ Tát thấy những chúng sanh độc ác, không hiền
lành, liền quở trách nặng nề, hoặc dùng lời dịu ngọt
[khuyên răn], hoặc xua đuổi cách ly, hoặc bỏ mặc. Đối
với kẻ tánh tình độc ác thì dùng lời dịu ngọt; đối
với kẻ kiêu mạn thì tỏ vẻ kiêu mạn hơn [cả họ], nhưng
trong lòng thật không có chút kiêu mạn nào. Đó gọi là phương
tiện của Bồ Tát không thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, Bồ Tát tuy còn đủ mọi phiền não, trong khi chỉ có
ít tài vật mà kẻ đến xin lại rất nhiều, lòng cũng không
hẹp hòi. Đó gọi là Bồ Tát không thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, vào lúc có Phật ra đời, Bồ Tát rõ biết công đức
của Phật. Bồ Tát lại vì chúng sanh mà sanh ra ở những nơi
không có Phật, thọ thân ở những vùng xa vắng tối tăm;
hoặc làm những người đui, điếc, què, cụt... Đó gọi là
Bồ Tát không thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, Bồ Tát rõ biết sâu xa những tội lỗi, sai lầm của
chúng sanh, nhưng vì muốn độ thoát chúng sanh nên thường
cùng họ làm việc. Tuy thường tùy theo ý chúng sanh nhưng không
bị tội lỗi xấu ác làm ô nhiễm. Đó cũng gọi là không
thể nghĩ bàn.
“Lại
nữa, Bồ Tát thấy biết rõ ràng là không có tướng chúng
sanh, không có phiền não nhiễm ô, không có kẻ tu tập Chánh
đạo lìa xa phiền não. Tuy tu tập Bồ-đề nhưng không có
hạnh Bồ-đề, cũng không có người thành tựu Bồ-đề; không
có người chịu khổ và không có người phá trừ sự khổ.
Dù vậy, Bồ Tát vẫn có thể vì chúng sanh mà phá trừ sự
khổ, thực hành hạnh Bồ-đề. Đó cũng gọi là không thể
nghĩ bàn.
“Lại
nữa, Bồ Tát thọ thân gần cuối[207] ở cõi trời Đâu-suất,
đó cũng gọi là không thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Cõi trời
Đâu-suất là tốt đẹp hơn hết trong Dục giới.[208] Những
cõi trời thấp hơn thì có tâm buông thả, lười nhác; những
cõi trời cao hơn thì các căn ám độn. Cho nên cõi trời Đâu-suất
là hơn hết. Những ai tu tập bố thí, trì giới sẽ được
sanh về những cõi trời ở bên trên hoặc bên dưới. Những
ai tu tập bố thí, trì giới, thiền định mới được sanh
về cõi trời Đâu-suất. Hết thảy Bồ Tát đều đã trừ
bỏ những cảnh hiện hữu ấy, dứt hết các cảnh hiện hữu,
không hề tạo tác những nghiệp sanh về cõi trời Đâu-suất
[nhưng vẫn] thọ thân chư thiên ở cõi trời ấy. Vì sao vậy?
Bồ Tát dù ở các cảnh giới hiện hữu khác cũng có thể
giáo hóa thành tựu cho chúng sanh. Bồ Tát thật không có lòng
tham dục nhưng vẫn sanh ra ở Dục giới, đó cũng gọi là
không thể nghĩ bàn.
“Bồ
Tát ma-ha-tát sanh ở cõi trời Đâu-suất có ba việc vượt
trội [hơn chư thiên ở đó]: một là thọ mạng, hai là hình
sắc, ba là danh xưng. Bồ Tát ma-ha-tát thật không mong cầu
được thọ mạng, hình sắc, danh xưng. Tuy không có tâm mong
cầu nhưng vẫn có được những sự vượt trội ấy. Bồ
Tát ma-ha-tát chỉ hết lòng ưa thích Niết-bàn, nhưng khi có
nhân duyên thì cũng có ba việc vượt trội ấy. Đó cũng gọi
là không thể nghĩ bàn.
“Tuy
Bồ Tát ma-ha-tát vượt trội hơn hẳn chư thiên về ba việc
ấy, nhưng chư thiên đối với Bồ Tát không hề sanh tâm sân
hận, đố kỵ, kiêu mạn, chỉ thường sanh tâm hoan hỷ. Bồ
Tát đối với chư thiên cũng không có lòng kiêu mạn. Đó
cũng gọi là không thể nghĩ bàn.
“Bồ
Tát ma-ha-tát không tạo nghiệp dẫn đến thọ mạng nhưng
cũng hưởng trọn thọ mạng ở cõi trời kia, gọi là thọ
mạng vượt trội. Bồ Tát cũng không có các nghiệp [tạo
thành] hình sắc, nhưng được thân hình tốt đẹp kỳ diệu,
tỏa sáng khắp nơi, gọi là hình sắc vượt trội. Bồ Tát
ma-ha-tát ở nơi cung điện của cõi trời Đâu-suất không
hề ưa thích năm món dục, chỉ vì thực hành những việc
thuộc về Chánh pháp mà thôi, vì thế mà danh xưng đầy khắp
mười phương, gọi là danh xưng vượt trội. Đó cũng gọi
là không thể nghĩ bàn.
“Khi
Bồ Tát ma-ha-tát từ cõi trời Đâu-suất giáng hạ thì cõi
đất chấn động sáu cách, nên cũng gọi là không thể nghĩ
bàn. Vì sao vậy? Vào lúc Bồ Tát giáng hạ, chư thiên các
cõi trời [thuộc] Dục giới và Sắc giới đều đến tiễn
đưa, phát ra những âm thanh lớn xưng tán ngợi khen Bồ Tát;
hơi gió phát ra từ miệng [chư thiên] làm cho cõi đất phải
chấn động. Lại có vị Bồ Tát là bậc [cao quý nhất như]
voi chúa giữa loài người. Bậc cao quý nhất như voi chúa giữa
loài người được tôn xưng là Long vương. Khi [Bồ Tát] Long
vương ấy mới nhập thai thì có các vị long vương ở bên
dưới cõi đất ấy, hoặc kinh sợ, hoặc vui mừng. Vì thế
mà cõi đất chấn động sáu cách. Đó cũng gọi là không
thể nghĩ bàn.
“Bồ
Tát ma-ha-tát tự rõ biết lúc nhập thai, lúc ở trong thai,
lúc ra khỏi thai; rõ biết cha, mẹ; không trong sạch cũng không
ô nhiễm, như hạt châu quý màu xanh trên búi tóc của Đế-thích.
Đó cũng gọi là không thể nghĩ bàn.
“Thiện
nam tử! Kinh Đại bát Niết-bàn cũng giống như vậy, cũng
là không thể nghĩ bàn.
“Thiện
nam tử! Ví như biển cả có tám điều không thể nghĩ bàn.
Những gì là tám? Một là từ [trong bờ] cạn mà [ra xa bờ]
dần dần sâu thêm.[209] Hai là đáy sâu khôn dò. Ba là [khắp
trong biển] đều cùng một vị mặn. Bốn là thủy triều [lên
xuống đều đặn] không bao giờ trễ hạn. Năm là chứa đủ
mọi thứ kho báu. Sáu là có những loài chúng sanh thân hình
to lớn sống trong đó. Bảy là không chứa giữ xác chết.[210]
Tám là tất cả những dòng nước chảy, những cơn mưa lớn
đều đổ vào trong biển cả, nhưng biển cũng không tăng thêm
hay giảm bớt.
“Thiện
nam tử! Có ba việc gọi là dần dần sâu thêm. Những gì là
ba? Một là phước lực của chúng sanh. Hai là [thuyền buồm]
thuận gió mà đi [ra xa bờ]. Ba là nước sông chảy vào [biển
cả].
“Đối
với những điều [khác, từ đáy sâu khôn dò] cho đến không
tăng thêm hay giảm bớt, mỗi điều cũng đều có ba việc
như thế.
“Kinh
điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng giống như vậy, cũng
có tám điều không thể nghĩ bàn.
“Điều
thứ nhất: dần dần sâu thêm là nói [tuần tự từ] các giới
ưu-bà-tắc, giới sa-di, giới tỳ-kheo, cho đến giới Bồ Tát;
từ quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán,
quả Phật Bích-chi, quả Bồ Tát, cho đến quả A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề. Kinh Đại Niết-bàn này dạy đủ các
pháp như thế, gọi là dần dần sâu thêm. Cho nên kinh này
gọi là [có tánh chất] dần dần sâu thêm.
“Điều
thứ hai: đáy sâu khôn dò là [ví như] Như Lai Thế Tôn không
sanh không diệt, không chứng đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề,
không chuyển Pháp luân, không ăn uống, không thọ nhận, không
thực hành bố thí; cho nên gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Tánh Phật không phải
sắc, cũng không lìa ngoài sắc; không phải thọ, tưởng, hành,
thức; cũng không lìa ngoài thọ, tưởng, hành, thức; là thường
có thể thấy, là nhân thành tựu, không phải nhân tạo tác.
Từ hàng Tu-đà-hoàn cho đến hàng Phật Bích-chi đều sẽ
đạt được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề; cũng không
có phiền não, cũng không có chỗ trụ. Tuy không có phiền
não nhưng không gọi là thường. Vì thế nên gọi là sâu xa.
“Lại
nữa, có chỗ rất sâu xa. Trong kinh này khi thì nói ngã, khi
lại nói vô ngã; khi thì nói thường, có lúc lại nói vô thường;
có khi nói tịnh, có khi lại nói bất tịnh; có khi nói lạc,
có khi lại nói khổ; hoặc khi nói không, hoặc khi nói chẳng
phải không; hoặc nói tất cả là có, hoặc nói tất cả là
không; hoặc nói Hai thừa, hoặc nói Nhất thừa; hoặc nói
năm ấm là tánh Phật; hoặc thuyết tam-muội Kim cang cùng với
Trung đạo, tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, Mười hai nhân duyên,
Đệ nhất nghĩa không, từ bi, bình đẳng đối với tất cả
chúng sanh; hoặc thuyết đỉnh trí, tín tâm, rõ biết các căn,
lực, trí tuệ không vướng ngại đối với tất cả các pháp.
Tuy nói có tánh Phật nhưng không nói nhất định. Vì vậy
nên gọi là sâu xa.
“Điều
thứ ba: cùng một vị [mặn là ví với] tất cả chúng sanh
đều có tánh Phật, đều cùng một giáo pháp, cùng một sự
giải thoát, một nhân, một quả, cùng một [vị] cam lộ; tất
cả đều sẽ đạt được thường, lạc, ngã, tịnh. Đó gọi
là cùng một vị.
“Điều
thứ tư: thủy triều [lên xuống] không bao giờ trễ hạn [là
ví] như trong kinh này chế định các tỳ-kheo không được
thọ nhận và tích chứa tám vật bất tịnh, nếu trong các
đệ tử của ta, những ai có thể thọ trì, đọc tụng, sao
chép, giảng giải phân biệt kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn
này, thà chịu mất thân mạng chứ không bao giờ phạm vào
sự cấm chế ấy. Đó gọi là thủy triều không bao giờ trễ
hạn.
“Điều
thứ năm: chứa đủ mọi thứ kho báu [là ví như] kinh này
tức là kho báu vô lượng. Của báu [trong kho] ấy là nói Bốn
niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực,
Bảy phần giác, Tám phần Thánh đạo, Anh nhi hạnh, Thánh hạnh,
Phạm hạnh, Thiên hạnh, các phương tiện thiện xảo, tánh
Phật của chúng sanh, công đức của Bồ Tát, công đức của
Thanh văn, công đức của Duyên giác, Sáu pháp Ba-la-mật, vô
số tam-muội, vô lượng trí tuệ. Đó gọi là [chứa đủ
mọi thứ] kho báu.
“Điều
thứ sáu: chúng sanh thân hình to lớn sống trong đó. Chúng
sanh thân hình to lớn là ví với Phật và Bồ Tát. Vì các
ngài có trí tuệ lớn nên gọi là chúng sanh to lớn. Lại vì
các ngài có thân lớn lao, có tâm lớn lao, vì [các ngài] trang
nghiêm rất mực, vì [các ngài] điều phục mạnh mẽ, vì [các
ngài có] phương tiện to lớn, vì [các ngài] thuyết pháp rộng
khắp, vì [các ngài có] thế lực mạnh mẽ, vì [các ngài có]
đồ chúng rộng lớn, vì [các ngài có] thần thông lớn mạnh,
vì [các ngài có] lòng từ bi trải khắp, vì [các ngài] là
thường trụ không biến đổi, vì [các ngài] không vướng
ngại đối với tất cả chúng sanh, vì [các ngài] bao dung thọ
nhận tất cả chúng sanh, cho nên gọi là chúng sanh thân hình
to lớn sống trong đó.
“Điều
thứ bảy: [biển cả] không chứa giữ xác chết. Xác chết
là ví với những kẻ nhất-xiển-đề, phạm vào bốn giới
cấm nặng,[211] năm tội vô gián,[212] phỉ báng kinh Phương
đẳng, điều không đúng Chánh pháp mà nói là Chánh pháp,
điều đúng Chánh pháp lại nói là không đúng Chánh pháp,
thu nhận và tích chứa tám thứ vật bất tịnh, tùy ý sử
dụng tài sản [được cúng dường] Phật, [cúng dường] chúng
tăng, làm những việc không đúng Chánh pháp đối với các
vị tỳ-kheo hoặc tỳ-kheo ni. [Những kẻ như thế] gọi là
xác chết. Kinh Niết-bàn này lìa khỏi những kẻ ấy nên gọi
là không chứa giữ xác chết.
“Điều
thứ tám: không tăng thêm hay giảm bớt [là ví như kinh này]
vì không có giới hạn, vì không có điểm khởi đầu hay kết
thúc, vì không thuộc về hình sắc, vì không do tạo tác, vì
là thường trụ, vì không sanh diệt, vì tất cả chúng sanh
đều bình đẳng, vì tất cả tánh Phật là cùng một tánh;
cho nên gọi là không tăng thêm hay giảm bớt.
“Vì
[tất cả những ý nghĩa như] thế, kinh này cũng giống như
biển cả, có đủ tám điều không thể nghĩ bàn.”
KINH
ĐẠI BÁT NIẾT-BÀN
HẾT
QUYỂN BA MƯƠI HAI