Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vi Diệu Pháp nhập môn

11 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 38417)
Vi Diệu Pháp nhập môn


VI DIỆU PHÁP NHẬP MÔN

Tỳ kheo Giác Chánh

NXB Sālā, Sài Gòn, 1974

blank

Lời Nói Ðầu

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ra đời nhằm vào việc phục vụ cho Tăng Sinh Học Viên mối bước vào ngưỡng cửa Abhidhamma là một môn học đối với người Phật tử sơ cơ phải bóp trán, nặn óc suy tư, vì gặp phải một rừng từ ngữ tân kỳ; tư tưởng mới lạ, nhứt là danh từ Pāli.

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" được xem như tái bản kỳ III, lần đầu chúng tôi cho in từng tập như "Vi Diệu Pháp tập I, II" v.v... Kỳ thứ nhì, chúng tôi cho in lại dưới hình thức vấn đáp, tức là quyển tập "Vi Diệu Pháp vấn đáp".

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm; và cũng có thể được xem như món Gia Bảo của Thiền Tông.

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" nầy còn có công năng đào bứng bốn loại điên đảo, là chấp rằng:

Thường, trong sự vô thường của ngũ uẩn.
Lạc, trong sự khổ não của pháp hữu vi.
Ngã, đói với các pháp đều vô ngã.
Tịnh, trong sự bất tịnh của Pháp hành.

Ðồng thời, cũng đánh tan các luận chấp của ngoại đạo cố gắng tìm chân đứng cho thuyết hữu ngã vào trong Phật giáo bằng cách bịa rằng còn 4 sự điên đảo khác của hàng Thinh Văn Giác là: "đối với chơn tâm là Thường, cho vô thườngđiên đảo; là Lạc, cho khổ nãođiên đảo; là Ngã, cho vô ngãđiên đảo; là Tịnh, cho bất tịnh là điên đảo", sau khi đã am tường "Duyên Sinh""Duyên Hệ", nhứt là được tỏ ngộ lẽ Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã trong phần Thiền Quán.

Chúng tôi cố gắng soạn, dịch, giải các loại sách thuộc môn Vi Diệu Pháp là noi bước tiền nhân đã có hoài bảo:

"Vô thượng thậm thâm Vi Diệu Pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa".

Tỳ kheo Giác Chánh
(Sài Gòn, 1974)

-ooOoo-

Diệu Pháp Cương Yếu.

Chia pháp:

Pháp tất cả chia có 2:

Pháp Tục Ðế.
Pháp Chơn Ðế.

Pháp Chơn Ðế chia có 2:

Pháp Vô Vi.
Pháp Hữu Vi.

Pháp Hữu Vi chia có 2:

Danh pháp.
Sắc pháp.

Danh pháp chia có 2:

Tâm.
Sở Hữu Tâm (Tâm sở)

a) Tâm

Tâm chia có 2:

Tâm Siêu Thế.
Tâm Hiệp Thế.

Tâm Hiệp Thế chia có 2:

Tâm Dục Giới.
Tâm Ðáo đại.

Tâm Dục Giới chia có 2:

Tâm Dục Giới Tịnh Hảo.
Tâm Dục Giới Vô Tịnh Hảo.

Tâm Dục Giới Vô Tịnh Hảo chia có 2:

Tâm Vô Nhân.
Tâm Bất Thiện.

Tâm Bất Thiện chia có 3:

Tâm tham.
Tâm sân.
Tâm si.

Tâm Tham chia có 8:

Tâm Tham thọ hỷ hợp tà vô trợ.
Tâm Tham thọ hỷ hợp tà hữu trợ.

Tâm Tham thọ hỷ ly tà vô trợ.
Tâm Tham thọ hỷ ly tà hữu trợ.

Tâm Tham thọ xả hợp tà vô trợ.
Tâm Tham thọ xả hợp tà hữu trợ.

Tâm Tham thọ xả ly tà vô trợ.
Tâm Tham thọ xả ly tà hữu trợ.

Tâm Sân chia có 2:

Tâm Sân thọ ưu hợp phấn vô trợ.
Tâm Sân thọ ưu hợp phấn hữu trợ.

Tâm Si chia có 2:

Tâm Si thọ xả hợp hoài nghi.
Tâm Si thọ xả hợp phóng dật.

Tâm Vô Nhân chia có 3:

Tâm Quả bất thiện vô nhân.
Tâm Quả thiện vô nhân.
Tâm Duy Tác vô nhân.

Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân chia có 7:

Tâm Nhãn thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Nhỉ thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Tỷ thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Thiệt thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Thân thức thọ khổ Quả bất thiện.

Tâm Tiếp thâu thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Quan sát thọ xả Quả bất thiện.

Tâm Quả Thiện Vô Nhân chia có 8:

Tâm Nhãn thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Nhỉ thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Tỷ thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Thiệt thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Thân thức thọ lạc Quả thiện vô nhân.

Tâm Tiếp Thâu thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Quan Sát thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Quan Sát thọ hỷ Quả thiện vô nhân.

Tâm Duy Tác Vô Nhân chia có 3:

Tâm Khai Ngũ môn thọ xả.
Tâm Khai ý môn thọ xả.
Tâm Ưng cúng vi tiếu thọ hỷ.

Tâm Dục Giới Tịnh Hảo chia có 3:

Tâm Thiện dục giới tịnh hảo hữu nhân (còn gọi là Tâm Ðại Thiện).
Tâm Quả dục giới tịnh hảo hữu nhân (Tâm Ðại Quả).
Tâm Duy tác dục giới tịnh hảo hữu nhân (Tâm Ðại Tố hay Ðại Hành).

Tâm Thiện Dục Giới Tịnh Hảo Hữu Nhân chia có 8:

Tâm Thiện thọ hỷ hợp trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ hỷ hợp trí hữu trợ.

Tâm Thiện thọ hỷ ly trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ hỷ ly trí hữu trợ.

Tâm Thiện thọ xả hợp trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ xả hợp trí hữu trợ.

Tâm Thiện thọ xả ly trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ xả ly trí hữu trợ.

Ghi chú: Tâm Quả và Tâm Duy Tác dục giới tịnh hảo hữu nhân chia ra có 8 thứ như Tâm Thiện dục giới hữu nhân.

Tâm Ðáo Ðại chia có 2:

Tâm sắc giới.
Tâm vô sắc giới.

Tâm Sắc Giới chia có 3:

Tâm Thiện sắc giới.
Tâm Quả sắc giới.
Tâm Duy Tác sắc giới (Tâm Tố sắc giới).

Tâm Thiện Sắc Giới chia có 5:

Tâm Thiện sơ thiền.
Tâm Thiện nhị thiền.
Tâm Thiện tam thiền.
Tâm Thiện tứ thiền.
Tâm Thiện ngũ thiền.

Ghi chú: Tâm Quả và Tâm Duy Tác sắc giới cũng có 5 thứ Tâm như Tâm Thiện sắc giới.

Tâm Vô Sắc Giới chia có 3:

Tâm Thiện vô sắc giới.
Tâm Quả vô sắc giới.
Tâm Duy Tác vô sắc giới.

Tâm Thiện vô Sắc Giới chia có 4:

Tâm Thiện không vô biên xứ.
Tâm Thiện thức vô biên xứ.
Tâm Thiện vô sở hữu xứ.
Tâm Thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Ghi chú: Tâm Quả và Tâm Duy Tác vô sắc giới cũng có 4 thứ tâm như tâm Thiện vô sắc giới.

Tâm Siêu Thế chia có 2:

Tâm Ðạo (Tâm Thiện siêu thế).
Tâm Quả siêu thế.

Tâm Ðạo chia có có 4:

Tâm Sơ đạo.
Tâm Nhị đạo.
Tâm Tam đạo.
Tâm Tứ đạo.

Tâm Sơ đạo chia có 5:

Tâm Sơ đạo Sơ thiền.
Tâm Sơ đạo Nhị thiền.
Tâm Sơ đạo Tam thiền.
Tâm Sơ đạo Tứ thiền.
Tâm Sơ đạo Ngũ thiền.

* Ghi chú: Tâm Nhị, Tam, Tứ đạo cũng có 5 thứ tâm như tâm Sơ đạo.

Tâm Quả Siêu Thế chia có 4:

Tâm Sơ Quả.
Tâm Nhị Quả.
Tâm Tam Quả.
TâmTứ Quả.

Tâm Sơ Quả chia có 5:

Tâm Sơ Quả Sơ thiền.
Tâm Sơ Quả Nhị thiền.
Tâm Sơ Quả Tam thiền.
Tâm Sơ Quả Tứ thiền.
Tâm Sơ Quả Ngũ thiền.

* Ghi chú: Tâm Nhị, Tam, Tứ Quả cũng có 5 thứ tâm như tâm Sơ Quả.

b) Sở hữu tâm:

Sở Hữu Tâm chia có 3:

Sở hữu Tợ tha.
Sở hữu Bất thiện.
Sở hữu Tịnh hảo.

Sở Hữu Tợ Tha chia có 2:

Sở hữu Biến hành.
Sở hữu Biệt cảnh.

Sở Hữu Biến Hành chia có 7:

Xúc.
Thọ.
Tưởng.
Tư.
Nhất hành.
Mạng quyền.
Tác ý.

Sở Hữu Biệt Cảnh chia có 6:

Tầm.
Tứ.
Thắng giải.
Cần.
Hỷ.
Dục.

Sở Hữu Bất Thiện chia có 5:

Sở hữu Si phần (bất thiện biến hành).
Sở hữu Tham phần.
Sở hữu Sân phần.
Sở hữu Hôn phần.
Sở hữu Hoài nghi.

Sở Hữu Si Phần chia có 4:

Si.
Vô tàm.
Vô Úy.
Phóng dật.

Sở Hữu Tham Phần chia có 3:

Tham.
Tà kiến.
Ngã mạn.

Sở Hữu Sân Phần chia có 4:

Sân.
Tật.
Lận.
Hối.

Sở Hữu Hôn Phần chia có 2:

Hôn trầm.
Thụy miên.

Sở Hữu Tịnh Hảo chia có 4:

Sở hữu Tịnh hảo biến hành.
Sở hữu Giới phần.
Sở hữu Vô lượng phần.
Sở hữu Trí tuệ.

Sở Hữu Tịnh Hảo Biến Hành chia có 19:

1) Tín. 2) Niệm. 3) Tàm. 4) Úy. 5) Vô tham.
6) Vô sân. 7) Hành xả. 8) Tịnh thân. 9) Tịnh tâm. 10) Khinh thân.
11) Khinh tâm. 12) Nhu thân. 13) Nhu tâm. 14) Thích thân. 15) Thích tâm.
16) Thuần thân. 17) Thuần tâm. 18) Chánh thân. 19) Chánh tâm.  

Sở Hữu Giới Phần chia có 3:

Chánh Ngữ.
Chánh Nghiệp.
Chánh Mạng.

Sở Hữu Vô Lượng Phần chia có 2:

Bi.
Tùy hỷ.

c) Sắc pháp:

Sắc Pháp chia có 2:

Sắc Tứ đại.
Sắc Y Ðại sinh.

Sắc Y Ðại Sinh chia có 10:

Sắc Thần kinh.
Sắc Cảnh giới.
Sắc Trạng thái.
Sắc Ý vật.
Sắc Mạng quyền.
Sắc Vật thực.
Sắc Hư không.
Sắc Biểu tri.
Sắc Ðặc biệt.
Sắc Tứ tướng.

Sắc Thần Kinh chia có 5:

Thần kinh Nhãn.
Thần kinh Nhĩ.
Thần kinh Tỷ.
Thần kinh Thiệt.
Thần kinh Thân.

Sắc Cảnh Giới chia có 4:

Sắc Cảnh sắc.
Sắc Cảnh thinh.
Sắc cảnh khí.
Sắc Cảnh vị.

* Ghi chú: Sắc Cảnh xúc là đất, lửa, gió nên không kể riêng.

Sắc Tính (Sắc Trạng thái) chia có 2:

Sắc Nam Tính.
Sắc Nữ Tính.

Sắc Biểu Tri chia có 2:

Sắc Thân biểu tri.
Sắc Khẩu biểu tri.

Sắc Ðặc Biệt chia có 3:

Sắc Khinh.
Sắc Nhu.
Sắc Thích nghiệp.

Sắc Tứ Tướng chia có 4:

Sinh.
Tiến.
Dị.
Diệt.

Pháp Tục Ðế chia có 2:

Danh chế định.
Nghĩa chế định.

Danh Chế Ðịnh chia có 6:

Danh chơn chế định.
Phi danh chơn chế định.

Danh chơn phi danh chơn chế định.
Phi danh chơn danh chơn chế định.

Danh chơn danh chơn chế định.
Phi danh chơn phi danh chơn chế định.

Nghĩa Chế Ðịnh chia có 7:

Hình thức chế định.
Hiệp thành chế định.
Chúng sanh chế định.
Phương hướng chế định.
Thời gian chế định.
Hư không chế định.
Tiêu biểu chế định.

Gồm Pháp:

- Tâm Tham, tâm Sân và tâm Si gồm lại gọi là Tâm Bất Thiện.

- Tâm Quả bất thiện vô nhân, Tâm Quả thiện vô nhân và Tâm Duy Tác vô nhân gồm lại gọi là Tâm Vô Nhân.

- Tâm Bất Thiện và Tâm Vô Nhân gồm lại gọi là Tâm Dục Giới Vô Tịnh Hảo.

- Tâm Thiện, Tâm Quả và Tâm Duy Tác dục giới tịnh hảo hữu nhân gồm lại gọi là Tâm Dục Giới Tịnh Hảo.

- Tâm Dục giới vô tịnh hảo và Tâm Dục giới tịnh hảo hữu nhân gồm lại gọi là Tâm Dục Giới.

- Tâm Thiện, Tâm Quả và Tâm Duy Tác sắc giới gồm lại gọi là Tâm Sắc Giới.

- Tâm Thiện, Tâm Quả và Tâm Duy Tác vô sắc giới gồm lại gọi là Tâm Vô sắc Giới.

- Tâm sắc giới và Tâm Vô sắc giới gồm lại gọi là Tâm Ðáo Ðại.

- Tâm Dục giới và Tâm Ðáo đại gồm lại gọi là Tâm Hiệp Thế.

- Tâm Sơ, Nhị, Tam và Tứ đạo gồm lại gọi là Tâm Ðạo Siêu Thế.

- Tâm Sơ, Nhị, Tam, Tứ Quả gồm lại gọi là Tâm Quả Siêu Thế.

- Tâm Ðạo và Tâm Quả Siêu Thế gồm lại gọi là Tâm Siêu Thế.

- Tâm Hiệp Thế và Tâm Siêu Thế gồm lại gọi là Tâm.

- Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý gồm lại gọi là Sở Hữu Biến Hành.

- Tầm, Tứ, Thắng, Giải, Cần, Hỷ, Dục gồm lại gọi là Sở Hữu Biệt Cảnh.

- Sở hữu Biến hànhSở hữu Biệt cảnh gồm lại gọi là Sở Hữu Tợ Tha.

- Si, Vô Tàm, Vô úy, Phóng dật gồm lại gọi là Sở Hữu Si Phần.

- Tham, Tà kiến, Ngã mạn gồm lại gọi là Sở Hữu Tham Phần.

- Sân, Tật, Lận và Hối gồm lại gọi là Sở Hữu Sân Phần.

- Hôn trầm, Thụy miên gồm lại gọi là Sở Hữu Hôn Phần.

- Sở hữu Si phần, sở hữu Tham phần, sở hữu Sân phần, sở hữu Hôn phần và sở hữu Hoài nghi gồm lại gọi là Sở Hữu Bất Thiện.

- Tín, Niệm, Tàm, Úy, Vô tham, Vô sân, Hành xả, Tịnh thân, Tịnh tâm, Khinh thân, Khinh tâm, Nhu thân, Nhu tâm, Thích thân, Thích tâm, Thuần thân, Thuần tâm, Chánh thân và Chánh tâm gồm lại gọi là Sở Hữu tịnh Hảo Biến Hành.

- Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng gồm lại gọi là Sở Hữu Giới Phần.

- Sở hữu Bi và Tùy hỷ gồm lại gọi là Sở Hữu Vô Lượng Phần.

- Sở hữu Tịnh hảo biến hành, Sở hữu Giới phần, Sở hữu Vô lượng phần và Sở hữu trí tuệ gồm lại gọi là Sở Hữu tịnh Hảo.

- Sở hữu Tợ tha, Sở hữu Bất thiệnSở hữu Tịnh Hảo gồm lại gọi là Sở Hữu Tâm.

- Sở Hữu tâm và Tâm gồm lại gọi là Danh Pháp.

- Ðất, Nước, Lửa, Gió gồm lại gọi là Sắc Tứ Ðại.

- Thần kinh nhãn, Thần kinh nhĩ, Thần kinh tỷ, Thần kinh thiệt và Thần kinh thân gồm lại gọi là Sắc Thần Kinh.

- Sắc Cảnh Sắc, Sắc Cảnh Thinh, Sắc Cảnh Khí và Sắc Cảnh Vị gồm lại gọi là Sắc cảnh Giới.

- Sắc Trạng thái Nam và Sắc Trạng thái Nữ gồm lại gọi là Sắc Trạng Thái.

- Sắc Thân biểu tri và Sắc Khẩu biểu tri gồm lại gọi là Sắc Biểu Tri.

- Khinh, Nhu và Thích nghiệp gồm lại gọi là Sắc Ðặc Biệt.

- Sinh, Tiến, Dị và Diệt gồm lại gọi là Sắc Tứ Tướng.

- Sắc Thần kinh, Sắc Cảnh giới, Sắc Trạng thái, Sắc Ý vật, Sắc Mạng quyền, Sắc vật thực, Sắc Hư không, Sắc Biểu tri, Sắc Ðặc biệt và Sắc Tứ tướng gồm lại gọi là Sắc Y Ðại Sinh.

- Sắc Tứ đại và Sắc Y đại sinh gồm lại gọi là Sắc Pháp.

- Danh Pháp và Sắc Pháp gồm lại gọi là Pháp Hữu Vi.

- Pháp Hữu viPháp Vô vi (Niết Bàn) gồm lại gọi là Pháp Chơn Ðế.

- Danh chơn chế định, Phi danh chơn chế định, danh chơn phi danh chơn chế định, Phi danh chơn danh chơn chế định, danh chơn danh chơn chế định, phi danh chơn phi danh chơn chế định gồm lại gọi là Danh Chế Ðịnh.

- Hình thức chế định, Hiệp thành chế định, Chúng sanh chế định, Phương hướng chế định, Thời gian chế định, Hư không chế định và Tiêu biểu chế định gồm lại gọi là Nghĩa Chế Ðịnh.

- Danh chế định và Nghĩa chế định gồm lại gọi là Pháp Tục Ðế.

- Pháp Chơn đế và pháp Tục đế gồm lại gọi là Pháp.

Source: BuddhaSasana
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49648)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34575)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33403)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43851)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56962)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47477)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39369)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 52860)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36543)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32188)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40381)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43411)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31411)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46649)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36112)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28642)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29177)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31825)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28748)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33290)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29066)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60931)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39672)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26604)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29598)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37283)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40016)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26792)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42581)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37202)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28236)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28845)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26347)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27116)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26150)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34524)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27759)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30424)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33189)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28507)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30013)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25448)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21801)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51203)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26641)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28557)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27654)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24290)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27399)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31847)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30116)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27640)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35367)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27387)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29957)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31679)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22970)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24117)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22960)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26563)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant