Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vi Diệu Pháp nhập môn

11 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 38408)
Vi Diệu Pháp nhập môn


VI DIỆU PHÁP NHẬP MÔN

Tỳ kheo Giác Chánh

NXB Sālā, Sài Gòn, 1974

blank

Lời Nói Ðầu

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ra đời nhằm vào việc phục vụ cho Tăng Sinh Học Viên mối bước vào ngưỡng cửa Abhidhamma là một môn học đối với người Phật tử sơ cơ phải bóp trán, nặn óc suy tư, vì gặp phải một rừng từ ngữ tân kỳ; tư tưởng mới lạ, nhứt là danh từ Pāli.

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" được xem như tái bản kỳ III, lần đầu chúng tôi cho in từng tập như "Vi Diệu Pháp tập I, II" v.v... Kỳ thứ nhì, chúng tôi cho in lại dưới hình thức vấn đáp, tức là quyển tập "Vi Diệu Pháp vấn đáp".

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm; và cũng có thể được xem như món Gia Bảo của Thiền Tông.

Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" nầy còn có công năng đào bứng bốn loại điên đảo, là chấp rằng:

Thường, trong sự vô thường của ngũ uẩn.
Lạc, trong sự khổ não của pháp hữu vi.
Ngã, đói với các pháp đều vô ngã.
Tịnh, trong sự bất tịnh của Pháp hành.

Ðồng thời, cũng đánh tan các luận chấp của ngoại đạo cố gắng tìm chân đứng cho thuyết hữu ngã vào trong Phật giáo bằng cách bịa rằng còn 4 sự điên đảo khác của hàng Thinh Văn Giác là: "đối với chơn tâm là Thường, cho vô thườngđiên đảo; là Lạc, cho khổ nãođiên đảo; là Ngã, cho vô ngãđiên đảo; là Tịnh, cho bất tịnh là điên đảo", sau khi đã am tường "Duyên Sinh""Duyên Hệ", nhứt là được tỏ ngộ lẽ Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã trong phần Thiền Quán.

Chúng tôi cố gắng soạn, dịch, giải các loại sách thuộc môn Vi Diệu Pháp là noi bước tiền nhân đã có hoài bảo:

"Vô thượng thậm thâm Vi Diệu Pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa".

Tỳ kheo Giác Chánh
(Sài Gòn, 1974)

-ooOoo-

Diệu Pháp Cương Yếu.

Chia pháp:

Pháp tất cả chia có 2:

Pháp Tục Ðế.
Pháp Chơn Ðế.

Pháp Chơn Ðế chia có 2:

Pháp Vô Vi.
Pháp Hữu Vi.

Pháp Hữu Vi chia có 2:

Danh pháp.
Sắc pháp.

Danh pháp chia có 2:

Tâm.
Sở Hữu Tâm (Tâm sở)

a) Tâm

Tâm chia có 2:

Tâm Siêu Thế.
Tâm Hiệp Thế.

Tâm Hiệp Thế chia có 2:

Tâm Dục Giới.
Tâm Ðáo đại.

Tâm Dục Giới chia có 2:

Tâm Dục Giới Tịnh Hảo.
Tâm Dục Giới Vô Tịnh Hảo.

Tâm Dục Giới Vô Tịnh Hảo chia có 2:

Tâm Vô Nhân.
Tâm Bất Thiện.

Tâm Bất Thiện chia có 3:

Tâm tham.
Tâm sân.
Tâm si.

Tâm Tham chia có 8:

Tâm Tham thọ hỷ hợp tà vô trợ.
Tâm Tham thọ hỷ hợp tà hữu trợ.

Tâm Tham thọ hỷ ly tà vô trợ.
Tâm Tham thọ hỷ ly tà hữu trợ.

Tâm Tham thọ xả hợp tà vô trợ.
Tâm Tham thọ xả hợp tà hữu trợ.

Tâm Tham thọ xả ly tà vô trợ.
Tâm Tham thọ xả ly tà hữu trợ.

Tâm Sân chia có 2:

Tâm Sân thọ ưu hợp phấn vô trợ.
Tâm Sân thọ ưu hợp phấn hữu trợ.

Tâm Si chia có 2:

Tâm Si thọ xả hợp hoài nghi.
Tâm Si thọ xả hợp phóng dật.

Tâm Vô Nhân chia có 3:

Tâm Quả bất thiện vô nhân.
Tâm Quả thiện vô nhân.
Tâm Duy Tác vô nhân.

Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân chia có 7:

Tâm Nhãn thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Nhỉ thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Tỷ thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Thiệt thức thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Thân thức thọ khổ Quả bất thiện.

Tâm Tiếp thâu thọ xả Quả bất thiện.
Tâm Quan sát thọ xả Quả bất thiện.

Tâm Quả Thiện Vô Nhân chia có 8:

Tâm Nhãn thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Nhỉ thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Tỷ thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Thiệt thức thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Thân thức thọ lạc Quả thiện vô nhân.

Tâm Tiếp Thâu thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Quan Sát thọ xả Quả thiện vô nhân.
Tâm Quan Sát thọ hỷ Quả thiện vô nhân.

Tâm Duy Tác Vô Nhân chia có 3:

Tâm Khai Ngũ môn thọ xả.
Tâm Khai ý môn thọ xả.
Tâm Ưng cúng vi tiếu thọ hỷ.

Tâm Dục Giới Tịnh Hảo chia có 3:

Tâm Thiện dục giới tịnh hảo hữu nhân (còn gọi là Tâm Ðại Thiện).
Tâm Quả dục giới tịnh hảo hữu nhân (Tâm Ðại Quả).
Tâm Duy tác dục giới tịnh hảo hữu nhân (Tâm Ðại Tố hay Ðại Hành).

Tâm Thiện Dục Giới Tịnh Hảo Hữu Nhân chia có 8:

Tâm Thiện thọ hỷ hợp trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ hỷ hợp trí hữu trợ.

Tâm Thiện thọ hỷ ly trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ hỷ ly trí hữu trợ.

Tâm Thiện thọ xả hợp trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ xả hợp trí hữu trợ.

Tâm Thiện thọ xả ly trí vô trợ.
Tâm Thiện thọ xả ly trí hữu trợ.

Ghi chú: Tâm Quả và Tâm Duy Tác dục giới tịnh hảo hữu nhân chia ra có 8 thứ như Tâm Thiện dục giới hữu nhân.

Tâm Ðáo Ðại chia có 2:

Tâm sắc giới.
Tâm vô sắc giới.

Tâm Sắc Giới chia có 3:

Tâm Thiện sắc giới.
Tâm Quả sắc giới.
Tâm Duy Tác sắc giới (Tâm Tố sắc giới).

Tâm Thiện Sắc Giới chia có 5:

Tâm Thiện sơ thiền.
Tâm Thiện nhị thiền.
Tâm Thiện tam thiền.
Tâm Thiện tứ thiền.
Tâm Thiện ngũ thiền.

Ghi chú: Tâm Quả và Tâm Duy Tác sắc giới cũng có 5 thứ Tâm như Tâm Thiện sắc giới.

Tâm Vô Sắc Giới chia có 3:

Tâm Thiện vô sắc giới.
Tâm Quả vô sắc giới.
Tâm Duy Tác vô sắc giới.

Tâm Thiện vô Sắc Giới chia có 4:

Tâm Thiện không vô biên xứ.
Tâm Thiện thức vô biên xứ.
Tâm Thiện vô sở hữu xứ.
Tâm Thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Ghi chú: Tâm Quả và Tâm Duy Tác vô sắc giới cũng có 4 thứ tâm như tâm Thiện vô sắc giới.

Tâm Siêu Thế chia có 2:

Tâm Ðạo (Tâm Thiện siêu thế).
Tâm Quả siêu thế.

Tâm Ðạo chia có có 4:

Tâm Sơ đạo.
Tâm Nhị đạo.
Tâm Tam đạo.
Tâm Tứ đạo.

Tâm Sơ đạo chia có 5:

Tâm Sơ đạo Sơ thiền.
Tâm Sơ đạo Nhị thiền.
Tâm Sơ đạo Tam thiền.
Tâm Sơ đạo Tứ thiền.
Tâm Sơ đạo Ngũ thiền.

* Ghi chú: Tâm Nhị, Tam, Tứ đạo cũng có 5 thứ tâm như tâm Sơ đạo.

Tâm Quả Siêu Thế chia có 4:

Tâm Sơ Quả.
Tâm Nhị Quả.
Tâm Tam Quả.
TâmTứ Quả.

Tâm Sơ Quả chia có 5:

Tâm Sơ Quả Sơ thiền.
Tâm Sơ Quả Nhị thiền.
Tâm Sơ Quả Tam thiền.
Tâm Sơ Quả Tứ thiền.
Tâm Sơ Quả Ngũ thiền.

* Ghi chú: Tâm Nhị, Tam, Tứ Quả cũng có 5 thứ tâm như tâm Sơ Quả.

b) Sở hữu tâm:

Sở Hữu Tâm chia có 3:

Sở hữu Tợ tha.
Sở hữu Bất thiện.
Sở hữu Tịnh hảo.

Sở Hữu Tợ Tha chia có 2:

Sở hữu Biến hành.
Sở hữu Biệt cảnh.

Sở Hữu Biến Hành chia có 7:

Xúc.
Thọ.
Tưởng.
Tư.
Nhất hành.
Mạng quyền.
Tác ý.

Sở Hữu Biệt Cảnh chia có 6:

Tầm.
Tứ.
Thắng giải.
Cần.
Hỷ.
Dục.

Sở Hữu Bất Thiện chia có 5:

Sở hữu Si phần (bất thiện biến hành).
Sở hữu Tham phần.
Sở hữu Sân phần.
Sở hữu Hôn phần.
Sở hữu Hoài nghi.

Sở Hữu Si Phần chia có 4:

Si.
Vô tàm.
Vô Úy.
Phóng dật.

Sở Hữu Tham Phần chia có 3:

Tham.
Tà kiến.
Ngã mạn.

Sở Hữu Sân Phần chia có 4:

Sân.
Tật.
Lận.
Hối.

Sở Hữu Hôn Phần chia có 2:

Hôn trầm.
Thụy miên.

Sở Hữu Tịnh Hảo chia có 4:

Sở hữu Tịnh hảo biến hành.
Sở hữu Giới phần.
Sở hữu Vô lượng phần.
Sở hữu Trí tuệ.

Sở Hữu Tịnh Hảo Biến Hành chia có 19:

1) Tín. 2) Niệm. 3) Tàm. 4) Úy. 5) Vô tham.
6) Vô sân. 7) Hành xả. 8) Tịnh thân. 9) Tịnh tâm. 10) Khinh thân.
11) Khinh tâm. 12) Nhu thân. 13) Nhu tâm. 14) Thích thân. 15) Thích tâm.
16) Thuần thân. 17) Thuần tâm. 18) Chánh thân. 19) Chánh tâm.  

Sở Hữu Giới Phần chia có 3:

Chánh Ngữ.
Chánh Nghiệp.
Chánh Mạng.

Sở Hữu Vô Lượng Phần chia có 2:

Bi.
Tùy hỷ.

c) Sắc pháp:

Sắc Pháp chia có 2:

Sắc Tứ đại.
Sắc Y Ðại sinh.

Sắc Y Ðại Sinh chia có 10:

Sắc Thần kinh.
Sắc Cảnh giới.
Sắc Trạng thái.
Sắc Ý vật.
Sắc Mạng quyền.
Sắc Vật thực.
Sắc Hư không.
Sắc Biểu tri.
Sắc Ðặc biệt.
Sắc Tứ tướng.

Sắc Thần Kinh chia có 5:

Thần kinh Nhãn.
Thần kinh Nhĩ.
Thần kinh Tỷ.
Thần kinh Thiệt.
Thần kinh Thân.

Sắc Cảnh Giới chia có 4:

Sắc Cảnh sắc.
Sắc Cảnh thinh.
Sắc cảnh khí.
Sắc Cảnh vị.

* Ghi chú: Sắc Cảnh xúc là đất, lửa, gió nên không kể riêng.

Sắc Tính (Sắc Trạng thái) chia có 2:

Sắc Nam Tính.
Sắc Nữ Tính.

Sắc Biểu Tri chia có 2:

Sắc Thân biểu tri.
Sắc Khẩu biểu tri.

Sắc Ðặc Biệt chia có 3:

Sắc Khinh.
Sắc Nhu.
Sắc Thích nghiệp.

Sắc Tứ Tướng chia có 4:

Sinh.
Tiến.
Dị.
Diệt.

Pháp Tục Ðế chia có 2:

Danh chế định.
Nghĩa chế định.

Danh Chế Ðịnh chia có 6:

Danh chơn chế định.
Phi danh chơn chế định.

Danh chơn phi danh chơn chế định.
Phi danh chơn danh chơn chế định.

Danh chơn danh chơn chế định.
Phi danh chơn phi danh chơn chế định.

Nghĩa Chế Ðịnh chia có 7:

Hình thức chế định.
Hiệp thành chế định.
Chúng sanh chế định.
Phương hướng chế định.
Thời gian chế định.
Hư không chế định.
Tiêu biểu chế định.

Gồm Pháp:

- Tâm Tham, tâm Sân và tâm Si gồm lại gọi là Tâm Bất Thiện.

- Tâm Quả bất thiện vô nhân, Tâm Quả thiện vô nhân và Tâm Duy Tác vô nhân gồm lại gọi là Tâm Vô Nhân.

- Tâm Bất Thiện và Tâm Vô Nhân gồm lại gọi là Tâm Dục Giới Vô Tịnh Hảo.

- Tâm Thiện, Tâm Quả và Tâm Duy Tác dục giới tịnh hảo hữu nhân gồm lại gọi là Tâm Dục Giới Tịnh Hảo.

- Tâm Dục giới vô tịnh hảo và Tâm Dục giới tịnh hảo hữu nhân gồm lại gọi là Tâm Dục Giới.

- Tâm Thiện, Tâm Quả và Tâm Duy Tác sắc giới gồm lại gọi là Tâm Sắc Giới.

- Tâm Thiện, Tâm Quả và Tâm Duy Tác vô sắc giới gồm lại gọi là Tâm Vô sắc Giới.

- Tâm sắc giới và Tâm Vô sắc giới gồm lại gọi là Tâm Ðáo Ðại.

- Tâm Dục giới và Tâm Ðáo đại gồm lại gọi là Tâm Hiệp Thế.

- Tâm Sơ, Nhị, Tam và Tứ đạo gồm lại gọi là Tâm Ðạo Siêu Thế.

- Tâm Sơ, Nhị, Tam, Tứ Quả gồm lại gọi là Tâm Quả Siêu Thế.

- Tâm Ðạo và Tâm Quả Siêu Thế gồm lại gọi là Tâm Siêu Thế.

- Tâm Hiệp Thế và Tâm Siêu Thế gồm lại gọi là Tâm.

- Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý gồm lại gọi là Sở Hữu Biến Hành.

- Tầm, Tứ, Thắng, Giải, Cần, Hỷ, Dục gồm lại gọi là Sở Hữu Biệt Cảnh.

- Sở hữu Biến hànhSở hữu Biệt cảnh gồm lại gọi là Sở Hữu Tợ Tha.

- Si, Vô Tàm, Vô úy, Phóng dật gồm lại gọi là Sở Hữu Si Phần.

- Tham, Tà kiến, Ngã mạn gồm lại gọi là Sở Hữu Tham Phần.

- Sân, Tật, Lận và Hối gồm lại gọi là Sở Hữu Sân Phần.

- Hôn trầm, Thụy miên gồm lại gọi là Sở Hữu Hôn Phần.

- Sở hữu Si phần, sở hữu Tham phần, sở hữu Sân phần, sở hữu Hôn phần và sở hữu Hoài nghi gồm lại gọi là Sở Hữu Bất Thiện.

- Tín, Niệm, Tàm, Úy, Vô tham, Vô sân, Hành xả, Tịnh thân, Tịnh tâm, Khinh thân, Khinh tâm, Nhu thân, Nhu tâm, Thích thân, Thích tâm, Thuần thân, Thuần tâm, Chánh thân và Chánh tâm gồm lại gọi là Sở Hữu tịnh Hảo Biến Hành.

- Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng gồm lại gọi là Sở Hữu Giới Phần.

- Sở hữu Bi và Tùy hỷ gồm lại gọi là Sở Hữu Vô Lượng Phần.

- Sở hữu Tịnh hảo biến hành, Sở hữu Giới phần, Sở hữu Vô lượng phần và Sở hữu trí tuệ gồm lại gọi là Sở Hữu tịnh Hảo.

- Sở hữu Tợ tha, Sở hữu Bất thiệnSở hữu Tịnh Hảo gồm lại gọi là Sở Hữu Tâm.

- Sở Hữu tâm và Tâm gồm lại gọi là Danh Pháp.

- Ðất, Nước, Lửa, Gió gồm lại gọi là Sắc Tứ Ðại.

- Thần kinh nhãn, Thần kinh nhĩ, Thần kinh tỷ, Thần kinh thiệt và Thần kinh thân gồm lại gọi là Sắc Thần Kinh.

- Sắc Cảnh Sắc, Sắc Cảnh Thinh, Sắc Cảnh Khí và Sắc Cảnh Vị gồm lại gọi là Sắc cảnh Giới.

- Sắc Trạng thái Nam và Sắc Trạng thái Nữ gồm lại gọi là Sắc Trạng Thái.

- Sắc Thân biểu tri và Sắc Khẩu biểu tri gồm lại gọi là Sắc Biểu Tri.

- Khinh, Nhu và Thích nghiệp gồm lại gọi là Sắc Ðặc Biệt.

- Sinh, Tiến, Dị và Diệt gồm lại gọi là Sắc Tứ Tướng.

- Sắc Thần kinh, Sắc Cảnh giới, Sắc Trạng thái, Sắc Ý vật, Sắc Mạng quyền, Sắc vật thực, Sắc Hư không, Sắc Biểu tri, Sắc Ðặc biệt và Sắc Tứ tướng gồm lại gọi là Sắc Y Ðại Sinh.

- Sắc Tứ đại và Sắc Y đại sinh gồm lại gọi là Sắc Pháp.

- Danh Pháp và Sắc Pháp gồm lại gọi là Pháp Hữu Vi.

- Pháp Hữu viPháp Vô vi (Niết Bàn) gồm lại gọi là Pháp Chơn Ðế.

- Danh chơn chế định, Phi danh chơn chế định, danh chơn phi danh chơn chế định, Phi danh chơn danh chơn chế định, danh chơn danh chơn chế định, phi danh chơn phi danh chơn chế định gồm lại gọi là Danh Chế Ðịnh.

- Hình thức chế định, Hiệp thành chế định, Chúng sanh chế định, Phương hướng chế định, Thời gian chế định, Hư không chế định và Tiêu biểu chế định gồm lại gọi là Nghĩa Chế Ðịnh.

- Danh chế định và Nghĩa chế định gồm lại gọi là Pháp Tục Ðế.

- Pháp Chơn đế và pháp Tục đế gồm lại gọi là Pháp.

Source: BuddhaSasana
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22272)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16006)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15017)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18938)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14436)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18614)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14408)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13573)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13542)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11806)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13227)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13643)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13922)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15016)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16149)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16442)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11893)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17580)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12865)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13695)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12851)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14850)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16372)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12075)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12762)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12887)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12767)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14157)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14099)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16461)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12373)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14374)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11295)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11018)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13184)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13882)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13151)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12995)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13485)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12721)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10226)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13956)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10217)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13692)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11947)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12961)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11632)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12663)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10791)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10976)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10931)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11884)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11054)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12606)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11311)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant