Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ lục 3

27 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 16856)
Phụ lục 3

THIỀN VÀ BÁT NHà

Daisetz Teitaro Suzuki

Bản dịch Việt: Tuệ Sỹ

---o0o---

THIỀN LUẬN NĂM

Ý NGHĨA CỦA TÂM KINH BÁT-NHÃ TRONG PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG

PHỤ LỤC 3

(Tuệ Sỹ)

NGUỒN THAM CHIẾU

1. 大般若波羅蜜多經卷第四百三 第二分觀照品第三之

T07n0220_p0014a07║  。。舍利子。諸色空彼非色

T07n0220_p0014a08║諸受想行識空彼非受想行識。何以故。舍

T07n0220_p0014a09║子。諸色空彼非變礙相諸受空彼非領納相

T07n0220_p0014a10║諸想空彼非取像相。諸行空彼非造作相。

T07n0220_p0014a11║識空彼非了別相。何以故。舍利子。色不

T07n0220_p0014a12║空。空不異色。色即是空。空即是色受想

T07n0220_p0014a13║識不異空。空不異受想行識。受想行識即

T07n0220_p0014a14║空空即是受想行識。舍利子。是諸法空相

T07n0220_p0014a15║不生不滅不染不淨。不增不減。非過去非

T07n0220_p0014a16║來非現在。如是空中無色無受想行識。無

T07n0220_p0014a17║處無耳鼻舌身意處。無色處無聲香味觸

T07n0220_p0014a18║處。無眼界色界眼識界無耳界聲界耳識界

T07n0220_p0014a19║無鼻界香界鼻識界。無舌界味界舌識界。

T07n0220_p0014a20║身界觸界身識界。無意界法界意識界。無

T07n0220_p0014a21║明亦無無明滅。乃至無老死愁歎苦憂惱。

T07n0220_p0014a22║無老死愁歎苦憂惱滅。無苦聖諦無集滅

T07n0220_p0014a23║聖諦。無得無現觀。無預流無預流果。無

T07n0220_p0014a24║來無一來果。無不還無不還果。無阿羅漢

T07n0220_p0014a25║阿羅漢果。無獨覺無獨覺菩提。無菩薩無

T07n0220_p0014a26║薩行。無正等覺無正等覺菩提。舍利子。

T07n0220_p0014a27║行般若波羅蜜多菩薩摩訶薩。與如是法

T07n0220_p0014a28║應故應言與般若波羅蜜多相應.

1. Đại Bát-nhã, Huyền Trang, quyển 403, phần II, phẩm 3 “Quán chiếu”

Xá-lợi Tử, các sắc là Không; chúng không phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức là Không; chúng không phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Vì sao vậy?

Các sắc là Không; chúng không phải là tướng biến ngại.[79] Các thọ là Không; chúng không phải là tướng lãnh nạp. Các tưởng là Không; chúng không phải là tướng bắt nắm ấn tượng. Các hành là Không; chúng không phải là tướng tạo tác. Các thức là Không; chúng không phải là tướng liễu biệt.

Vì sao vậy?

Xá-lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Sắc tức thị Không; Không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không khác Không; Không không khác thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức tức thị Không; Không tức thị thọ, tưởng, hành, thức.

Xá-lợi Tử, các pháp vốn là tướng Không; không sinh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại.

Trong Không như vậy không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có xứ của mắt, không có xứ của tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có xứ của sắc, không có xứ của thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của mắt, giới của sắc, giới của thức con mắt; không có giới của tai, không có giới của thanh, không có giới của thức lỗ tai; không có giới của mũi, không có giới của hương, không có giới của thức mũi; không có giới của lưỡi, không có giới của vị, không có giới của thức lưỡi; không có giới của thân, không có giới của xúc, không có giới của thức thân; không có giới của ý, không có giới của pháp, không có giới của thức ý; không vô minh, không có sự diện tận của vô minh; cho đến không có già-chết-sầu-than-khổ-ưu-não, cũng không có sự diệt tận của già-chết-sầu-than-khổ-ưu-não; không có Khổ Thánh đế, không có Tập, Diệt, Đạo Thánh đế; không có đắc, không có hiện quán; không có Dự lưu, không có quả Dự lưu; không có Nhất lai, không có quả Nhất lai; không có Bất hoàn, không có quả Bất hoàn; không có A-la-hán, không có quả A-la-hán; không có Độc giác, không có Bồ đề của Độc giác; không có Bồ-tát, không có Bồ-tát hành; không có Chính đẳng giác, không có Bồ đề của Chính đẳng giác.

Xá-lợi Tử, Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa tương ưng với pháp như vậy, cho nên nói là tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa.

 

2. 摩訶般若波羅蜜經 (鳩摩羅什譯) 卷第一習應品第三(丹本名為習相應品)

T08n0223_p0223a09。。。舍利弗

T08n0223_p0223a10色空中無有色。受想行識空中無有識。

T08n0223_p0223a11利弗。色空故無惱壞相。受空故無受相。

T08n0223_p0223a12空故無知相。行空故無作相。識空故無

T08n0223_p0223a13相。何以故。舍利弗。色不異空空不異色

T08n0223_p0223a14色即是空空即是色。受想行識亦如是。舍

T08n0223_p0223a15弗。是諸法空相。不生不滅。不垢不淨

T08n0223_p0223a16增不減。是空法非過去非未來非現在

T08n0223_p0223a17是故空中無色無受想行識。無眼耳鼻舌

T08n0223_p0223a18意。無色聲香味觸法。無眼界乃至無意

T08n0223_p0223a19界。亦無無明亦無無明盡。乃至亦無老

T08n0223_p0223a20亦無老死盡。無苦集滅道。亦無智亦無得

T08n0223_p0223a21亦無須陀洹無須陀洹果。無斯陀含無

T08n0223_p0223a22陀含果。無阿那含無阿那含果。無阿羅

T08n0223_p0223a23無阿羅漢果。無辟支佛無辟支佛道。

T08n0223_p0223a24佛亦無佛道。舍利弗。菩薩摩訶薩如是

T08n0223_p0223a25應。是名與般若波羅蜜相應

2. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh

Cưu-ma-la-thập, quyển 1, phẩm 3 “Tập tương ưng”

 

Xá-lợi-phất, trong sắc vốn Không không có sắc; trong thọ, tưởng, hành, thức vốn Không không có thọ, tưởng, hành, thức.

Xá-lợi-phất, sắc là Không nên không có tướng não hoại; thọ là Không nên không có tướng lãnh thọ; tưởng là không nên không có tướng tri nhận; hành là không nên không có tướng tạo tác; thức là Không nên không có tướng giác biết.

Vì sao vậy?

Xá-lợi-phất, sắc không khác Không, Không không khác sắc; sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy.

Xá-lợi-phất, các pháp ấy vốn là tướng Không, không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Pháp vốn Không ấy không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại. Cho nên, trong Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới con mắt, cho đến không có giới ý thức; không có vô minh, cũng không có sự tận diệt của vô minh; cho đến không có già-chết, cũng không có sự tận diệt của già-chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không có Trí, cũng không có đắc; không có Tu-đà-hoàn, không có quả Tu-đà-hoàn; không có Tư-đà-hàm, không có quả Tư-đà-hàm; không có A-la-hán, không có quả A-la-hán; không có Bích-chi-Phật, không có Bích-chi-Phật đạo; không có Phật cũng không có Phật đạo.

Xá-lợi-phất, tu tập Bồ-tát Ma-ha-tát nên như vậy, được nói là tương ưng Bát-nhã ba-la-mật.

 

3. 大智度論釋習相應品第三 (卷三十六)

T25n1509_p0327c11【經】舍利弗。色空中無有色受想行識空

T25n1509_p0327c12無有識【論】釋曰。何以故色與空相違。

T25n1509_p0327c13空來則滅色。云何色空中有色。譬如水

T25n1509_p0327c14無火火中無水。性相違故。復次有人言

T25n1509_p0327c15非實空。行者入空三昧中見色為空。以

T25n1509_p0327c16故言色空中都無有色。受想行識亦如

T25n1509_p0327c17【經】舍利弗色空故無惱壞相受空故無受

T25n1509_p0327c18想空故無知相。行空故無作相。識空故無

T25n1509_p0327c19相【論】問曰。此義有何次第。答曰先

T25n1509_p0327c20眾空中無五眾。今是中說其因緣。五眾

T25n1509_p0327c21各自相不可得故。故言五眾空中無五

T25n1509_p0327c22【經】何以故。舍利弗非色異空非空異色

T25n1509_p0327c23即是空空即是色受想行識亦如是。【論】

T25n1509_p0327c24曰。佛重說因緣。若五眾與空異。空中應

T25n1509_p0327c25五眾。今五眾不異空。空不異五眾。五眾

T25n1509_p0327c26是空。空即是五眾。以是故空不破五眾。

T25n1509_p0327c27以者何。是中佛自說因

T25n1509_p0327c28【經】舍利弗是諸法空相不生不滅不垢不

T25n1509_p0327c29不增不減。是空法非過去非未來非現在

T25n1509_p0328a01是故空中無色無受想行識。無眼耳鼻舌

T25n1509_p0328a02意無色聲香味觸法無眼界。乃至無意識界

T25n1509_p0328a03無無明亦無無明盡。乃至無老死亦無老

T25n1509_p0328a04盡。無苦集滅道。亦無智亦無得。無須陀

T25n1509_p0328a05無須陀洹果。無斯陀含無斯陀含果。無阿

T25n1509_p0328a06含無阿那含果。無阿羅漢無阿羅漢果。無

T25n1509_p0328a07支佛無辟支佛道無佛亦無佛道。舍利弗。

T25n1509_p0328a08薩摩訶薩如是習應。是名與般若波羅蜜

T25n1509_p0328a09應。【論】問曰。人皆知空中無所有不生

T25n1509_p0328a10滅不垢不淨不增不減無一切法。佛何以

T25n1509_p0328a11說五眾等諸法各各空。答曰。有人雖

T25n1509_p0328a12習空。而想空中猶有諸法。如行慈人。

T25n1509_p0328a13無眾生而想眾生得樂。自得無量福故

T25n1509_p0328a14以是故佛說諸法性常自空。非空三昧故

T25n1509_p0328a15法空。如水冷相火令其熱。若言以空三

T25n1509_p0328a16故令法空者。是事不然。智者是無漏八智

T25n1509_p0328a17得者初得聖道須陀洹果乃至佛道。是

T25n1509_p0328a18先已廣說.

3. Đại trí độ quyển 36, phẩm 3 “Tập tương ưng”

Kinh: Xá lợi-phất, trong sắc vốn Không không có sắc; trong thọ, tưởng, hành, thức vốn Không không có thọ, tưởng, hành, thức.

Luận: Vì sao vậy? Sắc với Không trái ngược nhau. Nếu Không xuất hiện thì sắc biến mất. Vì sao trong sắc vốn Không không tồn tại sắc? Cũng như trong nước không tồn tại lửa; trong lửa không tồn tại nước. Vì tính và tướng trái ngược nhau.

Lại nữa, có người nói, sắc không phải là thực Không. Hành giả nhập tam-muội, thấy rằng sắc là Không. Do đó nói, trong sắc vốn Không hoàn toàn không tồn tại sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy.

Kinh: Xá-lợi-phất, sắc là Không nên không có tướng não hoại; thọ là Không nên không có tướng lãnh thọ; tưởng là không nên không có tướng tri nhận; hành là không nên không có tướng tạo tác; thức là Không nên không có tướng giác biết.

Luận: Hỏi: Ý nghĩa này có thứ tự gì? Đáp, “Trước nói, trong năm chúng (uẩn) vốn Không không tồn tại năm chúng (uẩn). Nay trong đó nói nhân duyên ấy. Năm chúng (uẩn), mỗi chúng đều là đặc tướng bất khả đắc. Do đó nói, trong năm chúng (uẩn) vốn Không, không tồn tại năm chúng (uẩn).”

Kinh: Vì sao vậy? Xá-lợi-phất, không phải sắc khác Không, không phải Không khác sắc; sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ,tưởng, hành, thức cũng vậy.

Luận: Phật nói thêm về nhân duyên. Nếu năm chúng (uẩn) khác Không, thì trong Không tất phải tồn tại năm chúng. Nay, năm chúng không khác Không, Không không khác năm chúng; năm chúng tức thị Không, Không tức thị năm chúng. Vì vậy, tuy Không, nhưng năm chúng không bị phá. Vì sao? Trong đó, Phật tự nói rõ nhân duyên.

Kinh: Xá-lợi-phất, các pháp ấy vốn là tướng Không, không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Pháp vốn Không ấy không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại. Cho nên, trong Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới con mắt, cho đến không có giới ý thức; không có vô minh, cũng không có sự tận diệt của vô minh; cho đến không có già-chết, cũng không có sự tận diệt của già-chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không có Trí, cũng không có đắc; không có Tu-đà-hoàn, không có quả Tu-đà-hoàn; không có Tư-đà-hàm, không có quả Tư-đà-hàm; không có A-la-hán, không có quả A-la-hán; không có Bích-chi-Phật, không có Bích-chi-Phật đạo; không có Phật cũng không có Phật đạo.

Xá-lợi-phất, Bồ-tát ma-ha-tát tập ưng như vậy, được nói là tương ưng Bát-nhã ba-la-mật.

Luận: Hỏi: Mọi người đều đã rõ trong cái Không không có gì cả, không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm, không có hết thảy pháp; vì sao Phật phân biệt nói mỗi mỗi pháp, một trong năm chúng vân vân, thảy đều Không? Đáp: Có người tuy đã tu tập Không, nhưng tưởng trong Không vẫn có các pháp. Như người hành từ, tuy không tồn tại chúng sinh nhưng lại có tướng chúng sinh được an lạc; vì chính mình được vô lượng phước. Vì vậy Phật nói, các pháp tự chúng luôn luôn là Không. chứ không phải do tam-muội về Không mà khiến cho pháp trở thành Không. Như đặc tướng của nước là lạnh, mà lửa làm cho nó nóng. Nếu nói, do tam-muội về Không mà pháp trở thành Không, thì điều ấy không đúng.

Trí, đây chỉ tám trí vô lậu. Đắc, ở đây chỉ đắc Thánh đạo, từ Tu-đà-hoàn cho đến Phật đạo. Ý nghĩa này đã được nói chi tiết ở đoạn trên.

 


[79] Các chú thích liên hệ, xem phần dịch Tâm kinh Lược bản của Cưu-ma-la-thập ở trên.

 

 

---o0o---

Tựa tái bản


Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận vềộđược xuất bản lần đầu do An tiêm, năm 1972. Sởĩản toàn bộ, vì người dịch thấy cần phải đọc lại bản dịch trước đó, đểửa chữa và bổững sai lầmthiếu sót nhất định phải có; mà công việc này chưa gặp được thuận duyên đểực hiện. Vì vậy, chúng tôi sẽửa chữa từng phần, từng thiên luận, và sẽản dần. Thi Hoa nghiêm và Bát-nhã. Toàn b d không tái b s túc nh th s tái b

Nhân dịp đọc lại và sửa chữa, chúng tôi cũng thêm vào khá nhiều văn bản, tưệu liên quan đến Tâm kinh Bát-nhã. Các văn bản tưệu này giúp các độc giảơởđểựưệm những ý nghĩa tiềm ẩn của Tâm kinh Bát-nhã mà các bản luận giải không thểếđểận thức được. Các tưệu được cung cấp trong đây cũng chỉởừng mức có tính cách gợi ý. Vì nền văn học Bát-nhã, riêng trong Hán tạng, gồm các bản dịch và chú giải, quảật vô cùng đồộ, mà trong điều kiện hiện tại của trình độứu Phật học Việt nam thì công trình phiên dịch khó có thểực hiện cho đầy đủương đối chính xác được. Do đó, người dịch mong độc giảếu cảm thấy có đôi chút hứng thú với các tưệu được cung cấp ởđây, thì cũng chỉứng thú trong chừng mực vừa phải với nhận thức văn tự, ngoài ra thì tựưếu, đểượt qua giới hạn ngôn ngữ, đạt được cho mình những điều ý tại ngôn ngoại. li li có thêm c s t mình t duy và chiêm nghi thay th nh li ch th s nghiên c th và t n li nên h mình t duy quán chi v

 Phật lịch 2547

Quảng Hương Già-lam

Tuệ S

cẩn chí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12509)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14107)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10848)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10512)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11190)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11998)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13132)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13632)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33654)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11335)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12922)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13056)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11624)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17890)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11431)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11848)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11488)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18972)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12539)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11321)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13136)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15753)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11689)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12763)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12630)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13965)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12979)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12935)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13295)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12759)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12686)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11733)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11722)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12324)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12381)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19815)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11989)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16880)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15057)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16114)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12871)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12218)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11914)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11922)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16504)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13227)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12483)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11816)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19857)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11149)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11253)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10400)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11089)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10958)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10034)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11745)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant