Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý nghĩa Phật thành đạo

07 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 8547)
Ý nghĩa Phật thành đạo


Ý NGHĨA PHẬT THÀNH ĐẠO
Theo truyền thuyết Nam tông, đức Phật đản sinh, thành đạonhập Niết Bàn cùng trong một ngày, tức là ngày Rằm trăng tròn tháng Tư âm lịch. Theo truyền thuyết Bắc tông, đức Phật đản sinh vào ngày Rằm tháng Tư (trước ngày mồng 8 tháng Tư), thành đạo ngày mồng 8 tháng Chạp, và nhập Niết Bàn vào ngày Rằm tháng Hai âm lịch. Nhưng Bắc tông hay Nam tông, quan hệ và ý nghĩa Lễ Thành Đạo chỉ là một. Chí nguyện xuất gia, quá trình tầm đạo học đạo, hành khổ hạnh, hành Thiền, tu tập Thiền quán, chứng Chánh Đẳng Giác cùng là một. Quá trình ấy đều được các học phái chấp nhận, dù có những sai khác về chi tiết
 
Theo truyền thống, Thái tử đi dạo chơi bốn cửa thành, thấy một người già, một người bệnh, một người chết và một người tu sĩ xuất gia. Bốn hình ảnh được chứng kiến này làm Ngài xúc động rất mạnh. Ba hình ảnh đầu mở mắt cho Ngài thấy cảnh sinh, lão, bệnh, tử đè nặng trên kiếp sống con người. Hình ảnh thứ tư giới thiệu con đường giải thoát ra khỏi khổ đau: sanh, già, bệnh, chết. Do vậy chí nguyện xuất gia của Ngài đã được minh định rõ ràng như đã được diễn tả trong kinh Thánh Cầu sau đây:
 
“Này các Tỳ kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa chứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già , tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm... Vậy Ta tự mình bị sanh. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bì sanh, hãy tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết Bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm. Sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị ô nhiễm, hãy cầu tìm cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết Bàn” (Trung Bộ Kinh I, 163).
 
Ở nơi đây, chúng ta sẽ nhận thấy vai trò của cảm thọ (Vedanà) rất là đặc biệt trong quá trình xuất gia, tu đạothành quả của Ngài, chính vì thấy sự đau khổ của chúng sinh, và đau khổ (Dukkha) là một cảm thọ, đau khổ vì bị sanh, đau khổ vì bị già, đau khổ vì bị bệnh, đau khổ vì bị chết nên Ngài mới xuất gia tìm đạo. Cho nên đạo Phật có thể nói là một đạo bắt đầu với một cảm thọ tức là khổ thọchấm dứt cùng vớì một cảm thọ, tức là lạc thọ, giải thoát lạc, chánh gìác lạc. Ở đây chúng ta hiểu một cách toàn diện câu nói rất đặc biệt của đức Phật: “Trọn đời Ta thuyết pháp, Ta chỉ nói có hai điều: sự khổ và sự diệt khổ” (Trung Bộ I, 140).
 
Với tâm nguyện giải quyết vấn đề sanh, lão, bệnh, tử nên Thái tử xuất gia tu đạo, như được chính Ngài diễn tả trong đoạn kinh sau đây: 
 
“Rồi này các Tỳ kheo, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dù cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc. Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, để đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng, tối thắng an tịnh, đạo lộ, hướng đến tịch tịnh...” (Trung Bộ Kinh I, trang 163).
 
Sau khi xuất gia, Thái tử đi đến học đạo với Alàra Kàlàma và Udaka Ràmaputta, và sau khi học và tu chứng quả Vô sở hữu xứPhi tưởng phi phi tưởng xứ, quả vị cao nhất mà hai vị này đạt được, Ngài suy nghĩ: “Pháp này không hướng đến yểm ly, ly tham, đoạn, diệt, an tịnh, thượng trí, giác ngộ, Niết Bàn mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỳ kheo, Ta không tôn kính các pháp này, và từ khước pháp ấy, Ta bỏ đi” (Trung Bộ Kinh I, trang 166).
 
Tiếp đến là những năm khổ hạnh của Ngài vì trong thời bấy giờ, có nhiều vị giáo chủ tin tưởng rằng khổ hạnhcon đường đưa đến giải thoát; có hành hạ thân xác, có cảm thọ khổ đau mới hy vọng giải thoát giác ngộ.
 
Trong Đại kinh Saccaka, vị Bồ-tát tu tập nghiến răng, dấu chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Rồi Ngài tu tập Chỉ tức Thiền (tức là Thiền nín thở), chịu những khổ đau kinh khủng, khi thì bị tiếng gió động kinh khủng thổi ngang qua lỗ tai như tiếng ống bệ, khi thì bị ngọn gió kinh khủng thổi ngang qua đầu, khi thì bị đau đầu một cách kinh khủng, khi thì bị một sức nóng kinh khủng, thiêu đốt. Đức Phật tường thuật lại đời sống tu khổ hạnh:
 
“Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen, hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cay leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phơi bày của Ta giống như một chuỗi trái bóng; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột của một sàn nhà hư nát; vì Ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt giống như ánh nước long lanh nằm sâu trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu của Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng đắng, cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ da bụng” thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống” thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống”. 
 (Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 245).
 
Hiện nay ở các chùa Việt Nam có thờ tượng Phật gọi là tượng Tuyết Sơn hay tượng Phật tu khổ hạnh, chỉ còn da bọc lấy xương, như chúng ta được thấy ở chùa Bút Tháp.
 
Điều quan hệ ở nơi đây là những bài học, những kinh nghiệm, vị Bồ-tát đã rút tỉa ra được, khi tự mình tu khổ hạnh như vậy: “Này Aggivessana, dù Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dù cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy”. Rồi vị Bồ-tát nghĩ đến lúc còn nhỏ khi vua cha đang dự lễ cày cấy, và Thái tử được đặt ngồi dưới một gốc cây, Thái tử nhập sơ Thiền: “Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ”. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: “Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?”. Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: “Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta có sợ chăng, lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp?”. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: “Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp”. (Đại kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I, trang 246-Bồ-tát).
 
Vị Bồ-tát nói lên kinh nghiệm riêng của Ngài về vấn đề Thiền như sau:
 
“Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực, và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm ta. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại, nhưng Ta không chi phối tâm Ta”. (Trung Bộ Kinh I, trang 247).
 
Ở đây, thế giới hành Thiền là một thế giới cảm thọ, cảm thọ sơ Thiền đưa đến hỷ lạc là một cảm thọ này do sống viễn ly đưa đến. Thiền thứ hai cũng là một cảm thọ, cảm thọ hỷ lạc, nhưng hỷ lạc này do định sanh. Thiền thứ ba cũng là một cảm thọ. Xả niệm lạc trú, không còn hỷ, chỉ có thuần túy lạc thọ. Và Thiền thứ tư cũng là một cảm thọ, xả niệm thanh tịnh, lạc cũng không còn, và được xả thay thế và xả cũng là một cảm thọ
 
Khi đã nhận thức được con đường phái đi, vị Bồ-tát đi tới Uruvelà (Ưu-lâu-tần-loa), thấy một địa điểm khả ái một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, có một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và chung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn. “Và này các Tỳ kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ: “Thật là vừa đủ để tinh tấn””. Chỗ ngồi mà vị Bồ-tát lựa chọndưới gốc cây Bồ đềBồ đề Đạo tràng, và con sông kế cận là con sông Neranjara (Ni-liên-thiền). Theo truyền thống Nam tông, đêm ấy Ngài thành đạo chứng quả Bồ đề, và sau khi thành đạo, Ngài ở lại chung quanh cây Bồ đề đến 49 ngày. Theo truyền thống Bắc tông, sau khi Ngài đến cây Bồ đề, ở lại 49 ngày rồi mới chứng quả. Đó là những sai khác về học phái chưa được giải thích tường tận. Điều quan hệ là Ngài đã thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, sau khi thực hiện quá trình thành đạo: xuất gia, học đạo, tu khổ hạnh, hành Thiền, tuệ quánchứng quả Chánh Đẳng Giác.
 
Con đường đức Phật tự mình tu hành chứng quả và giảng dạy lại cho các đệ tửcon đường Giới, Định, Tuệ. Giới là một nếp sống lành mạnh, xa rời các dục, các bất thiện pháp, như đã được diễn tả trong nhiều kinh điển. Thứ hai là Định, tức là Thiền định, phương pháp tập trung nội tâm trên những đối tượng lựa chọn để đoạn trừ năm triền cái: tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi và thay thế bằng năm Thiền chi: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Các Thiền chi này được giảm dần cho đến Thiền thứ tư, chỉ có xả và nhất tâm. Tới đây chấm dứt giai đoạn Thiền định thứ hai và mở đầu giai đoạn thứ ba tức là giai đoạn trí tuệ.
 
Chính xả và nhất tâm, tức là Thiền thứ tư đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình giác ngộ của vị tu sĩ Một mặt, Thiền thứ tư là vị trí người hành giả, có đủ nội lực, nghị lực để đối trị ác ma, đối trị sức mạnh của dục. Thiền thứ tư với xả và nhất tâm đạt được địa vị cao nhất của Thiền sắc giới, Thiền này chấm dứt giai đoạn Giới (Sìla) và Định (Samàdhi) và mở đường cho giai đoạn thứ ba tức là Tuệ (panna). Thiền này chấm dứt Samatha (Chỉ) và mở đầu cho Vipassanà (Quán). Nói một cách khác, phải với định lực của Thiền thứ tư là xả và nhất tâm, người hành giả mới có sức mạnh để Thiền quánhiệu quả và tiến dần đến đích giác ngộ, giải thoát. Tiến trình giải thoát, giác ngộ của đức Phật dược diễn tả như sau:
 
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy. Ta dẫn tâm đến Túc mạng minh...
 
Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là đệ nhất minh Ta đã chứng được trong đêm canh một. Vô minh diệt thì minh sanh, ám diệt thì ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, Này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 
 
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tỉnh như vậy, Ta dẫn tâm hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sinh, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhãn, thấy sự sống và chết của chúng sinh . . . Này Aggivessana, đó là đệ nhị minh Ta đã chứng được trong đêm canh hai, vô minh diệt, minh sanh; ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần Như vậy này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. 
 
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí Ta biết như thật: “Đây là Khổ”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của Khổ”, biết như thật “Đây là Khổ diệt”, biết như thật “Đây là con đường đưa đến Khổ diệt”, biết như thật: “Đây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Ta đã biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”. Này Aggivessana, đó là đệ tam minh Ta đã chứng trong canh ba, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
 
Có một con đường làm nổi bật vai trò các cảm thọ trong quá trình giải thoát và giác ngộ, vì trong phương pháp này, chúng ta thấy rõ sự đóng góp vô cùng quan trọng của cảm thọ.
 
Vị hành giả, cùng với xả và nhất tâm của Thiền thứ tư, thanh tịnh trong sáng như vậy, không tập trung vào bốn Không định vì là những pháp hữu vi, còn bị sanh diệt; cũng không suy tưởng đến Hữu hay Phi hữu, nên không có chấp thủ mọi sự vật gì ở đời. Không chấp thủ nên không sợ hãi tháo động. Do không sợ hãi tháo động, vị hành giả chứng Niết Bàn, tự biết mình đã chứng quả A-la-hán: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”. Khi vị ấy cảm thọ lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy biết cảm thọ ấy là vô thường, không nên đắm trước, không phải là đối tượng để hoan hỷ. Vị ấy biết không có hệ phược, vị ấy cảm giác các thọ ấy. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ lấy thân làm tối hậu hay lấy sinh mạng làm tối hậu, vị ấy biết vị ấy cảm giác một cảm thọ, lấy thân làm tối hậu hay lấy sanh mạng làm tối hậu. Vị ấy biết sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ hoan hỷ ở nơi đây trở thành thanh lương. Do vậy vị hành giả thành tựu được bốn Thắng xứ tối thắng (Ariya adhitthàni): Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ thắng xứ (Pannà) nghĩa là trí biết sự đoạn tận mọi đau khổ. Sự giải thoát của vị này an trú vào Chân đến (Sacca) không bị dao động, không thể đưa đến hư vọng, thuộc về Chân đế, Niết Bàn. Vị hành giả thành tựu Tối thắng đế thắng xứ (Saccadhitthànà), tức là Niết Bàn không có thể dựa trên hư vọng. Mọi sanh y vô trí thức của vị ấy được đoạn tận gốc rễ, không có thể tái sanh. Vị ấy thành tựu Tối thắng tuệ (Càgàditthànà), tức là sự xả ly tất cả sanh y. Các tham ái, thuộc tham dục; phẫn nộ thuộc sân hận; vô minh thuộc si mê, không có thể hiện hữu trong tương lai, không có khả năng sanh khởi. Vị ấy thành tựu được tối thắng, tịch tĩnh thắng xứ (Upasamàditthànà). Những vọng tưởng: “Tôi là, tôi là cái này, tôi không là cái này, tôi sẽ không là cái này. Tôi sẽ có sắc, có tưởng”. Những vọng tưởng ấy là bệnh, là cục bướu, là mũi tên, vị hành giả vượt khỏi các vọng tưởng và được gọi là vị ẩn sĩ tịch tịnh tức là vị ẩn sĩ không sanh, không già, không có dao động, không có hy cầu. Không sanh làm sao già được, không già làm sao chết được, không chết làm sao dao động được. Không dao động làm sao hy cầu. Cho nên vị ấy đạt được tịch tĩnh. Ở đây chúng ta nhận thấy vị hành giả khi giác ngộ giải thoát không phải thụ động, không phải đoạn diệt, không phải trở thành vô tri giác như thường bị hiểu lầm, nhưng là một trạng thái rất sinh động, rất phấn khởi với cả bốn tối thắng Thánh thắng xứ (Ariyàdhitthànàni): trí tuệ, chân đế, tuệ xả, tịch tịnh, tác động rất mạnh mẽ. Đến đây sự đau khổ được chấm dứt hoàn toàn, mọi cảm thọ trở thành thanh lương, tịch tịnh, không có sanh, lão, bệnh, tử, không còn khổ vì sanh, khổ bệnh, khổ vì già, khổ vì chết. Vị ấy thật sự giác ngộ giải thoát. Vị ấy đã thành đạo
 
Quá trình giác ngộ giải thoát của đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng như sự giác ngộ, giải thoát của các vị A-la-hán, đã được thể hiện trọn vẹn trong ngày thành đạo của Ngài. Từ nơi sự thành đạo của Ngài, chúng ta rút tỉa được một số kinh nghiệmhiểu biết như sau:
 
1. Quá trình giác ngộ, giải thoát của đức Phật là một quá trình tu tập về tâm lý, dựa trên những tâm lý của con người hiện tại, không có thần linh, không có bùa pháp, không có cứu rỗi.
 
Trong quá trình này các cảm thọ đóng một vai trò chủ yếu vô cùng quan trọng. Chính khổ thọ khiến Ngài xuất gia; chính khổ thọ khiến Ngài từ bỏ khổ hạnh; chính lạc thọ khiến Ngài hành Thiền; chính xả thọ là chân đứng để Ngài giác ngộ giải thoát, thành đạo.
 
2. Pháp môn đưa đến giác ngộ, giải thoát là Giới, Định, Tuệ, nghĩa là phải sống một nếp sống tốt lành trong sạch, dựa trên nếp sống ấy, tập trung tâm tư vào những đối tượng có lựa chọn để phát triển nội lực định tâm, và với xả và nhất tâm trong sáng của Thiền thứ tư, bước vào Thiền quán, nhìn cái nhìn như thật với trí tuệ, và lấy trí như thật ấy đoạn tận các lậu hoặc để được giác ngộ giải thoát.
 
3. Đức Phật là một người như chúng ta, sanh ra là một người, sống như một người và từ giã cõi đời như một người, nhưng là một người vì sự đau khổ của chúng sinhxuất gia tu đạo, một con người có đủ nghị lực kiên trì can đảm, để chiến thắng mọi trở ngại cuối cùng tìm ra được con đường diệt khổ cứu độ chúng sinh.
 
Ngày Thành Đạo của Ngài nói lên sự thành công cao cả của con người đã biết nâng cao phẩm giác tuyệt vời của con người, có khả năng giác ngộ và đã thành tựu sự giác ngộ một cách trọn vẹn dưới gốc cây Bồ đề.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22061)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15915)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14933)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18787)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14302)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13453)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11725)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13570)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13839)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13155)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14919)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10990)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16323)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11779)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17476)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13587)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12789)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16252)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13028)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12001)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12663)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12790)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14032)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14024)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14290)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13801)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13068)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12905)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13415)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12604)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10129)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13821)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13599)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16167)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11880)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10701)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10894)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11808)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10983)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant